Xin Cho Một Đời Tạ Ơn
Nữ tu Elizabeth Bùi Thị Nghĩa
Lời tựa bài viết: “Xin Cho Một Đời Tạ Ơn”
Năm 2000 ông Ron Briggs cậy tôi viết một bài thuật lại giai đoạn tôi sinh hoạt trong Cộng Đồng Công Giáo Người Việt tại Nam Úc. Họ định ra một ấn phẩm kỷ niệm các hoạt động và thành tựu của người Việt Nam tại Nam Úc trong thời gian 25 năm từ 1975 đến 2000. Dưới đây là nguyên văn bài viết đã được xuất bản hai mươi năm về trước.
Sau ba mươi năm ở Úc, tôi được ơn gọi đi phục vụ dân Chúa theo một phương cách khác. Tôi nhớ các đấng sinh thành hằng yêu thương tôi vẫn cầu nguyện và mong mỏi tôi chuyển đến Hoa Kỳ, là nơi mà toàn thể gia đình tôi định cư sau ngày chiến cuộc kết thúc.
Vào năm 2005, tôi rời Úc và đến Hoa Kỳ để phục vụ với tư cách là một Nữ tu Tuyên úy cho các bệnh viện Mercy trên toàn quốc Hoa Kỳ . Đối với tôi, cơ hội trở thành Sơ Tuyên Úy rất quan trọng và tôi tin rằng đó là một nhiệm vụ rất có ý nghĩa. Tôi ở đây vì bệnh nhân và gia đình của họ, cho các bác sĩ và tất cả các đồng nghiệp của chúng tôi. Tôi ở đây để hoàn thành sứ mệnh của Lòng Thương Xót – mang đến sự sống cho chức vụ chữa lành của Chúa Giêsu thông qua sự chăm sóc từ bi và sự phục vụ đặc biệt.
Mười lăm năm trôi qua, tôi đã luôn thương nhớ và cầu nguyện cho tất cả những người quen của tôi ở Úc, đặc biệt là ở Nam Úc.
Tác giả, ông Ron Briggs, đã qua đời, vì vậy tôi cảm ơn trang mạng Tượng đài Thuyền nhân Việt Nam tại Nam Úc đã mời và cho tôi cơ hội để chia sẻ bài viết này. Bài báo mô tả 30 năm tôi phục vụ ở Úc và Adelaide. Đó là một ví dụ về một thuyền nhân đến Nam Úc và đóng góp nhỏ; một đóng góp cho đất nước Úc, Tiểu bang Nam Úc và Cộng đồng Việt Nam của tôi.
Nữ tu Elizabeth Bùi Thị Nghĩa RSM, OAM
Tuyên úy Công giáo & Cố vấn khu vực Tây Nam,
Bệnh viện Springfield Mercy, Hoa Kỳ, 15/10/2020
Xin Cho Một Đời Tạ Ơn
Khi còn là một nữ tu trẻ trong dòng Mến Thánh giá, sơ Elizabeth Nghĩa đã đến Úc năm 1976 như một trong những “thuyền nhân”, đã bị buộc phải chạy trốn khỏi quê hương sau chiến tranh Việt Nam. Câu chuyện thực sự về người phụ nữ đáng chú ý này bắt đầu trước khi sơ đến đất nước này. Đây là một câu chuyện đáng kinh ngạc về sự sống còn và niềm tin khi đối mặt với những nghịch cảnh không thể hiểu được. Thật vậy, một số người có thể đã nghĩ rằng sơ và những người bạn đồng hành còn sống sót, là một phép lạ.
“… đã không có thức ăn trong bốn ngày, tình hình đã trở nên nguy ngập”
Câu chuyện về những kinh nghiệm đau buồn của Sơ Elizabeth bắt đầu khi một chiếc thuyền đánh cá nhỏ với 32 người tuyệt vọng trên tàu, rời khỏi bờ biển Việt Nam để đi tìm tự do, là một điều đã bị từ chối ở đất nước họ. Họ đã có dự phòng lương khô và nước trong năm ngày. Đến ngày thứ mười của cuộc hành trình, thì đã không có thức ăn trong bốn ngày, tình hình đã trở nên nguy ngập. Tất cả mọi người đều rất yếu vì thiếu thức ăn, và con thuyền đang trôi dạt không còn xăng dầu. Bản thân sơ Elizabeth quá yếu nên không thể đứng vững được cũng như một số người đồng hành của sơ. Vào lúc đó một con tàu đi vào tầm nhìn của đoàn vượt biên đã nâng tinh thần của đoàn lên.
Hy vọng đựơc giải cứu của họ đã tiêu tan khi con tàu vẫn tiếp tục đi.
Sơ Elizabeth nhớ rất rõ cảnh tượng lúc đó, đã đoán biết trước đó là kết thúc, sơ và những người đồng hành của mình đã nói lời tạm biệt với nhau và chuẩn bị cho những điều không thể tránh được. Một con tàu khác xuất hiện và di chuyển đến gần nhưng giữ một khoảng cách với tàu. Đó là Hai Lee, một tàu chở hàng có bảng đăng ký Hồng Kông. Trước sự thất vọng của Sơ Elizabeth và những người bạn đồng hành của mình, con tàu này cũng bắt đầu rời xa họ. Trong tuyệt vọng, nỗ lực cuối cùng để được giải cứu, Sơ Elizabeth được hỏi liệu sơ có làm theo thói quen của một nữ tu không. Sơ đã làm như vậy. Sơ đã cố gắng đứng dậy và được hai người bạn đồng hành hỗ trợ, Sơ Elizabeth đứng trên boong thuyền câu cá nhỏ và cầu nguyện cho một phép màu. Một lần nữa, Hai Lee lướt tới, và lần này Sơ Elizabeth và các bạn đồng hành của sơ đã được đưa lên tàu. Ông chủ của Hai Lee giải thích thông qua các phiên dịch viên rằng khi anh ta dừng lại lần đầu tiên, anh ta đã gọi cho chủ tàu để được hướng dẫn, và đã được lệnh tiếp tục đi. Sau đó anh nhìn thấy Sơ Elizabeth cầu nguyện, anh ta đã gửi một tin nhắn radio khác, đồng thời tâm sự với những người sống sót rằng tại gia đình ở Hồng Kông, chính anh ta có anh chị em trong các Dòng tu.
Sơ Elizabeth nhớ lại lúc ấy sơ và những người trong đoàn đã được đối đãi rất tử tế và thủy thủ đoàn đã nhường chỗ ở cho chúng tôi. Sơ luôn luôn biết ơn vị thuyền trưởng và chủ nhân của tàu Hai Lee. Sau đó thì họ được biết là chiếc tàu đầu tiên đã lướt qua họ mà bỏ đi thẳng là một chiếc tàu chở hàng của Liên Xô đang trên đường đi đến Việt Nam. Chiếc tàu Hai Lee mang tất cả những người sống sót về Hồng Kông, nhưng họ đã bị từ chối cập cảng và phải tiếp tục đi đến Nhật Bản. Vào lúc đó sơ Elizabeth đã trở bịnh nặng. Có lúc sơ chỉ cân nặng có 36 ký lô. Sơ Elizabeth đã ở lại Nhật Bản 3 tháng ̣để tịnh dưỡng sau cơn hoạn nạn trước khi sang Úc tỵ nạn.
Đối với nhiều người, chỉ nội chuyện sống sót sau một cuộc chiến, thực hiện những cuộc vượt biên đầy nguy hiểm và việc đi đến một miền đất xa lạ mong đến một lúc nào đó sẽ trở nên quen thuộc, một nền văn hóa khác biệt, đã là hãi hùng quá đỗi. Nhưng điều đó không gây ảnh hưởng gì đến sơ Elizabeth, đối với sơ đây là cơ hội tái sinh và khởi đầu mới. Một trong những rào cản đầu tiên mà sơ phải vượt qua là dòng tu của sơ không có chi nhánh tu viện tại Úc. Và đáp án là dòng tu Sister of Mercy đã chấn nhận sơ vào dòng tu của họ. Và sơ Elizabeth đã mau chóng nhận định rằng, đây là một giải pháp hoàn hảo
Sơ nói “Bây giờ tôi có 2 gia đình”, dòng tu Chị em Thương xót ở Úc và dòng Mến Thánh giá ở Việt Nam.
Tuy cũng là người tỵ nạn mới đến, nhưng sơ Elizabeth đã nhanh chóng nắm lấy cơ hội để giúp đỡ những người kém may mắn trong việc thích ứng với hoàn cảnh của riêng họ. Đã nhiều lần đối diện với những điều không thể khoan dung và định kiến, và mặc dù sơ cũng có những khó khăn của riêng mình là một người mới đến, sơ đã nhận ra sức ép về nhu cầu cần giúp đỡ của những phụ nữ di dân tỵ nạn cùng quê hương.
Vào năm 1978, không tới 2 năm sau khi sơ bắt đầu cuộc sống mới ở Úc, và với một số nhỏ nhoi về kinh phí cũng như nguồn nhân lực, sơ đã góp phần xây dựng Hội Phụ Nữ Đông Dương Úc Châu bây giờ là Hội Phụ Nữ Đông Nam Á, và sơ đã trở thành Chủ Tịch tiên khởi và Giám Đốc Phúc Lợi. Tổ chức này lúc bắt đầu chỉ là một nhóm phụ nữ tự lực cánh sinh giúp đỡ lẫn nhau về tôn giáo và phúc lợi trong những lãnh vực như nhà cửa, việc làm, lợi tức, giáo dục và tư vấn, đây là điển hình những loại công việc sơ Elizabeth đã làm.
Mặc dù đây là những công việc có tính cách thử thách cao độ, nhưng công việc của sơ với nhóm phụ nữ chỉ là một khía cạnh trong động lực hành động của người phụ nữ đáng chú ý này. Theo tinh thần trung thực của nền tản giáo huấn dòng tu của sơ, sơ nắm bắt mọi cơ hội để thể hiện thái độ quan tâm của mình bằng cách nỗ lực phục vụ, giúp đỡ và an ủi người khác, và mang lại hy vọng cho tất cả những người đang cần. Vì vậy, ngoài công việc xã hội của mình đối với thế hệ lớn tuổi, sơ Elizabeth còn duy trì một sự quan tâm sâu đậm đối với trẻ em của cộng đồng Việt Nam
Sự nhạy cảm sâu sắc của sơ đối với những nhu cầu đặc biệt của trẻ em có thể được bắt nguồn từ thời điểm sơ Elizabeth buộc phải chạy trốn khỏi Việt Nam khi quân đội Cộng sản chiếm trại trẻ mồ côi Sài Gòn, nơi sơ đã phụ trách 100 trẻ mồ côi. Sơ không những không có thời gian để nói lời từ biệt với gia đình mà còn phải rời xa những đứa trẻ mà sơ đã chăm sóc, và những người sơ đã sống và làm việc hơn sáu năm. Đó là một đòn nặng nề đối với người nữ tu kiên nhẫn và khiêm tốn này, một người có “tội” duy nhất là dành thời gian và sức lực để chăm sóc những người kém may mắn hơn mình
Năm 1983, chỉ vài năm ngắn ngủi sau khi sang Úc tỵ nạn, sơ Elizabeth nhận ra nhu cầu cần thành lập một trường sắc tộc trong cộng đồng của mình để trẻ em không bị mất ngôn ngữ và truyền thống văn hóa. Chính vì vậy sơ đã thành lập và trở thành Hiệu trưởng Trường Sắc tộc Việt Nam Lạc-Long.
Minh chứng cho sự thành công của dự án này, cũng như trong rất nhiều dự án khác mà Sơ Elizabeth tham gia, ̣đã được ghi trong số liệu thống kê cho thấy; trong mười sáu năm tồn tại, Trường đã phát triển từ 8 học sinh ban đầu lên số học sinh hiện tại là 756 em với sáu địa điểm trên khắp vùng đô thị Adelaide.
Năm 1984, sơ Elizabeth đã được trao tặng Huân chương Danh dự của Úc do những hoạt động phục vụ phúc lợi sắc tộc. Bản thân sơ Elizabeth là người đầu tiên hạ thấp tầm quan trọng của một giải thưởng như vậy, thay vào đó sơ muốn xem Huân chương này như một sự công nhận công lao của tất cả những đồng nghiệp của sơ và cả những người sơ phục vụ. Đối với nhiều người, giải thưởng OAM được coi là thành tựu quan trọng nhất của hoạt động phục vụ cộng đồng của họ. Nhưng sơ Elizabeth thì khác; sơ xem đó lại là một khởi đầu mới, đơn giản là một sự khởi đầu khác, và là một cột mốc quan trọng trên con đường đạt được nhiều thành tựu hơn nữa, không chỉ cho cộng đồng Việt Nam mà cho cả cộng đồng di dân nói chung. Đó là thước đo của người phụ nữ phi thường này.
Năm 1985, sơ Elizabeth được lọt vào danh sách nhận Giải thưởng BHP Pursuit of Excellence của quốc gia ở hạng mục dịch vụ và phúc lợi cộng đồng. Được trích dẫn trong cuốn sách trích dẫn kèm theo giải thưởng, một trong những đồng nghiệp của sơ đã nói thế này: “Sơ ấy đi công tác bảy ngày một tuần và đôi khi quên ăn, nhưng cô ấy không bao giờ quên công việc của mình. Tôi muốn nghĩ rằng những người di dân và những người tị nạn khác, bất kể họ đến từ quốc gia nào, đều có hy vọng, nhu cầu và tham vọng của họ được thực hiện thành công như những người đã được Sơ Elizabeth chăm sóc “.
Năm 1994, Đại học Flinders của Nam Úc đã trao tặng cho Sơ Elizabeth một Huân chương Kỷ niệm Phụ nữ trong Thế kỷ vì quyền lợi của phụ nữ, để ghi nhận “sự đóng góp xuất sắc của sơ trong việc hỗ trợ các phụ nữ Đông Dương và gia đình của họ, và công việc của sơ trong việc cung cấp dịch vụ và hỗ trợ cộng đồng cho phụ nữ nhập cư”.
Cùng với các thành viên khác của cộng đồng Việt Nam, một trong những thành tựu rõ ràng hơn của sơ Elizabeth là việc thành lập Trung tâm Cộng đồng Thiên Chúa Giáo Việt Nam tại Pooraka. Đây cũng là một dự án mà trong giai đoạn đầu của nó đã gặp phải rất nhiều sự phản đối từ một số khu vực. Tuy nhiên, ngày nay, Trung Tâm đa dạng tại Pooraka là một sự tôn vinh phù hợp cho chủ nghĩa khắc khổ của Sơ Elizabeth và quyết tâm hoàn thành công việc một cách lặng lẽ và hiệu quả, bất kể trở ngại là gì.
Để ghi nhận công việc của sơ, và đặc biệt là sự cống hiến xuất sắc của sơ trong việc hỗ trợ cộng đồng, Hội Đồng Thành phố Salisbury đã vinh danh Sơ Elizabeth là Công dân của Năm trong năm 2000. Trích dẫn đi kèm với phần trao Giải thưởng, có nội dung: “Giải thưởng dành cho Công dân Thành phố Salisbury của Năm, năm nay thuộc về một trong những lực lượng năng động nhất trong Thành phố của chúng ta, cho một phụ nữ không bao giờ nghỉ ngơi nếu có cơ hội làm điều gì đó tích cực cho cộng đồng của mình
Sơ Elizabeth vẫn là một người lôi cuốn nhưng âm thầm, với khả năng làm việc năng nổ để cải thiện chất lượng cuộc sống của tất cả những người cần sự giúp đỡ. Sơ có thể nhỏ bé, nhưng xét về công việc mà sơ ấy làm trong cộng đồng của mình, hầu hết chúng ta sẽ trở nên tầm thường khi so sánh với sơ. Trái ngược với nghị lực năng động của mình, và phù hợp với ơn kêu gọi của mình, sơ ấy không hề có kỳ vọng cao. Sơ khiêm tốn, nếu không nói là miễn cưỡng, chấp nhận những giải thưởng và danh hiệu được ban tặng sơ ấy coi những giải thưởng này không phải là biểu tượng mà là sự tôn vinh đối với toàn bộ cộng đồng Đông Dương trong nỗ lực của họ để đóng góp tích cực cho quốc gia mà họ biết , Úc, là nơi họ đã đến để gọi là nhà của họ. “Mục tiêu chính của tôi,” Sơ Elizabeth nói, ” là phục vụ những người cần giúp đỡ này, và để làm được điều này, sơ đã cám ơn Thiên Chúa về tình yêu thương và sự quan phòng của Ngài.
Tác giả Ron Briggs
Trích trong kỷ yếu: “Mừng 25 năm Người Việt định cư tại Nam Úc”
Cộng Đồng Thiên Chúa Giáo Nam Úc xuất bản năm 2000
Lưu ý: Có thể xem thêm những câu chuyện về sơ Elizabeth làm việc tại Hoa Kỳ từ năm 2005 từ một số bài viết dưới đây:
Khuôn mặt của lòng thương xót: Người nữ tu sống sót sau chiến tranh, Đói khát trước khi thành Tuyên Úy Mục Vụ cho bệnh viện
30 tháng 10 năm 2016
Bài viết của Mercy’s Madelynn Innes
https://www.mercy.net/newsroom/2016-10-30/faces-of-mercy-sister-survives-war-starvation-prior-to-ministry-at-hospital/
Trả về phía trước: Nữ tu được cứu bởi một Sứ mệnh Truyền bá nhân từ xa lạ
6 tháng 12 năm 2017
Bài viết của Karel Lucander
http://www.sistersofmercy.org/blog/2017/12/06/paying-it-forward-sister-saved-by-a-stranger-spreads-the-mercy-mission/
Nữ tu Elizabeth Bùi Thị Nghĩa
Related Articles
Luật Sư Việt Nam Tốt Nghiệp Đầu Tiên tại Nam Úc
Trí sinh ra trong một gia đình có bốn anh em trai và hai chị gái ở miền Nam Việt Nam. Năm 1980, anh rời Việt Nam cùng anh trai lớn là Tâm khi anh vừa mới tám tuổi. Máy bị hỏng nên ghe họ vượt biên đã trôi vô định hướng 17 ngày liên tiếp…
Thuyền Nhân
Từ sau ngày 30/4/1975, từ điển ngôn ngữ thế giới có thêm một thuật ngữ mới: Boat People (Thuyền Nhân), một định nghĩa ám chỉ những người tị nạn Việt Nam chạy trốn khỏi quê hương bằng thuyền.
Một Dấu Mốc Lịch Sử
Năm 1975, chúng ta đã thấy được những bước khởi đầu trong việc định cư những người Việt tỵ nạn và suốt ba mươi năm qua kể từ đó bộ mặt của Úc đã có thay đổi. Sự xuất hiện của những người Việt tỵ nạn đã…
Từ Nghị viên Trở Nên Thượng Nghị Sĩ Quốc hội Tiểu Bang
Nghị sĩ Tùng trở thành người Úc gốc Việt đầu tiên được bầu vào Quốc hội Nam Úc. Vào thời điểm đó anh là nghị viên duy nhất có nguồn gốc Việt Nam trong Quốc Hội tại Úc, việc này chưa từng có trong bất kỳ Quốc hội nào…