Trại Giam Trên Biển
The Floating Prison by Jon Davison
Translated by: Christi Publishing Inc., USA
Edited by: De Tran, USA
Đầu tháng Hai năm 1979, các nhân viên của Trung Tâm Kiểm Soát Tị Nạn, Sở Cảnh Sát, và Sở Di Trú Hồng Kông đã thở phào nhẹ nhõm sau câu chuyện dài mỏi mệt với con tàu Huy Phong. Thân xác rỉ sét của chiếc tàu khổng lồ này đã bỏ neo ngoài khơi Vịnh Hồng Kông vào tháng 12 năm 1978 với 3,318 người tị nạn ra đi tìm tự do từ quê hương điêu linh của họ.
Đã phải mất cả tháng trời mới tìm được biện pháp giải quyết thích nghi với những người tị nạn đói khát, bệnh hoạn, và bơ vơ trên tàu, những con người đã phải trả gần 3,000 đô la bằng vàng lượng mỗi người cho các cơ quan chức năng của Việt Nam để được họ thả cho đi.
Cuối cùng thì chiếc Huy Phong cũng được phép cập bến Hồng Kông với hàng núi giấy tờ kèm theo trong việc kiếm chỗ tạm trú cho đám người tị nạn khốn khổ này tại một căn cứ không quân cũ ở Kaitak, ngay thời điểm mà Hồng Kông cũng đang căng cứng với gần 58,000 thuyền nhân cập bến bằng các thuyền nhỏ mỗi ngày. Tuy nhiên, những chiếc tàu lớn cỡ này lại là một vấn đề khác. Nhưng dù sao thì đối với những người đã làm việc tận lực tại Trung Tâm Kiểm Soát Tị Nạn, Cảnh Sát Cảng và Sở Di Trú Hồng Kông, thì phần việc của họ coi như xong, và đã giúp được một chiếc tàu lớn chở đầy người tị nạn tới bến an toàn.
Nhưng phân khúc cuối của bi kịch này đã vô tình hé mở cho thấy một kỹ nghệ buôn người vô cùng béo bở. Lợi nhuận khổng lồ, hơn 9 triệu đô la Mỹ cho mỗi chuyến, đã được thực hiện bằng cách khai thác triệt để thảm trạng thuyền nhân. Tàu càng lớn thì lời càng cao, và trong vở bi kịch Huy Phong, Hồng Kông đã được coi như một bãi đáp tương đối “mềm.”
Thế nhưng, ba tuần sau khi vở Huy Phong hạ màn, mọi người bật ngửa khi Hải Quan trông thấy một chiếc tàu lạ bỏ neo tại khu Kiểm Dịch Quận Tây. Họ vội vàng gọi cho Cảnh Sát Cảng Waflan và Đồn Biên Phòng Green Island, là hai cơ quan có nhiệm vụ theo dõi tất cả các tàu mới tới, cho hay là đang có một chiếu tàu lạ im lìm không trả lời khi họ đánh tín hiệu hỏi. Tới khi Cảnh Sát Cảng đổ bộ lên chiếc Skyluck, họ sững sờ nhìn thấy 2,561 người tị nạn lúc nhúc trên tàu, và cũng như lần trước, mỗi con người khốn khổ này đã phải xót xa chi ra 3,000 đô bằng vàng lượng cho mỗi người. Chiếc tàu này hoàn toàn không có giấy tờ gì và sổ hải trình nào, nhưng lại có một thuyền trưởng; Ông này khai là tàu đã xuất bến từ Singapore; nhưng khi thẩm tra, ông lại không trả lời được tại sao cuộc hải trình đã phải mất 27 ngày thay vì 5 ngày như thường lệ.
Các cơ quan thẩm quyền Hồng Kông bắt đầu nhận ra vấn đề tị nạn này thật sự mới chỉ là chóp nhọn trên bề mặt của một tảng băng ngầm khổng lồ bên dưới.
Mặc dù chiếc tàu này có vẻ tốt hơn so với chiếc Huy Phong và những người tị nạn trên tàu có vẻ khỏe mạnh hơn, nhưng chiếc SKYLUCK lại là một tàu chở hàng, không phải chở người. Những người tị nạn trên tàu nằm sắp lớp như cá mòi trong các khoang chứa hàng bên dưới và ngồi lúc nhúc bên trên, dùng những miếng cạc-tông rách bươm để lót mình từ lớp vỏ sắt thô nhám. Chắc chắn đây không phải là chỗ dành cho đàn bà và trẻ con, mặc dù họ có vẻ khỏe mạnh lúc đó. Các giới chức thẩm quyền, lại một lần nữa, phải đối mặt với nan đề phải làm gì với số người này.
Họ thấy rõ là vụ SKYLUCK không phải là một vấn nạn riêng cho Đông Nam Á phải tự lo lấy, mà phải là một trách nhiệm chung của toàn thế giới. Họ quyết định kéo SKYLUCK ra neo ngoài đảo Lamma và giữ nó tại đó cho tới khi có “chuyện gì đó” xảy ra, trong lúc báo chí bắt đầu khuấy động lương tâm thế giới. Trong khi chờ đợi, những người tị nạn này vẫn phải được cho ăn uống, sức khỏe của họ vẫn phải được chăm sóc, và toàn bộ tình huống phải được quản lý cẩn thận. Khởi sự với 5,400 cân Anh khẩu phần quy định và 150 tấn nước sạch cho những người tị nạn không nơi nương tựa, và cứ thế mà cung cấp.
Sau khi các mối quan tâm hàng đầu về sự an nguy của những người tị nạn trên tàu đã tạm yên, giới hữu trách bắt đầu quay lại với câu chuyện của ông thuyền trưởng và thủy thủ đoàn của SKYLUCK. Chiếc tàu đã đi đâu trong suốt 22 ngày không có trong lộ trình? Ông thuyền trưởng người Đài Loan khai ông đã xuống tàu tại Singapore, và đã vớt số thuyền nhân này dọc đường từ nhiều thuyền gỗ nhỏ chật cứng người và sắp chìm ngoài biển. Ông lại khai là sau khi được vớt lên tàu, các thuyền nhân này đã trói ông lại, và chĩa dao ra lịnh cho ông phải chạy tới Hồng Kông. Ông cũng khai thêm là chính những người tị nạn này đã quăng hết giấy tờ tàu xuống biển, cho nên ông đã không có sổ hải trình để trình báo. Tuy nhiên, các cơ quan hữu trách vẫn không hiểu vì sao ông đã mất thêm tới 22 ngày để chỉ đi từ Singapore tới Hồng Kông. Hơn nữa, lại không có chứng từ gì cho thấy tại sao trong khoang lại chứa đầy thùng cạc-tông rỗng, và các thủ tục hải trình thông thường cho biết lai lịch và mục tiêu của con tàu trên danh sách vận chuyển của các tàu dự kiến sẽ cặp bến Hồng Kông đã hoàn toàn không được tuân thủ. Ông này không giải thích được gì thêm, và những điều ông đã khai lại chẳng đâu vào đâu.
Các cơ quan hữu trách bắt đầu liên lạc với các cảng chung quanh xem SKYLUCK đã có ghé bến nào dọc đường hay không để mong tìm thêm manh mối. Tuy nhiên, hầu hết các nơi này đều đã thi hành triệt để chính sách kéo thuyền tị nạn ngược trở ra biển bỏ mặc cho họ tự chống chọi lấy, mà nhất định không cho đổ bộ lên bất cứ chỗ nào dọc theo bờ biển của họ. Chính sách này đã được chấp hành và kiểm soát nghiêm nhặt, nên vì thế mà các cơ quan hữu trách phía Hồng Kông đã không tìm ra được thêm manh mối gì. Cuối cùng, có một bản tin đánh đi từ Philippines cho hay là đã có một chiếc tàu hàng tên KYLU đã đổ 600 người tị nạn xuống đảo Boayan ngoài khơi Palawan, rồi bỏ chạy khi bị tàu Tuần Duyên Philippines rượt đuổi. Cảnh Sát Cảng Hồng Kông lại vô tình phát hiện ra là, nếu viết thêm ba chữ S, C và K vào tên KYLU, thì sẽ thành tên SKYLUCK, chỉ đơn giản vậy thôi! Điều này đã được xác định khi họ khám phá ra là chữ SKYLUCK đã được sơn chồng lên một lớp sơn mới. Tuy nhiên, điều này tự nó không đủ để chứng minh hai chiếc KYLU và SKYLUCK chính là một; mà chỉ thêm một tang chứng cho việc buôn người bất hợp pháp, và là phân khúc hai của vở bi kịch HUY PHONG. Vào thời điểm đó, chưa ai từng nghe nói, và không ai có thể tin rằng lại có một quốc gia nào đó lại có thể cố kiếm lời trên những người tị nạn ra đi từ chính quốc gia họ.
Người tị nạn lại không hề biết chuyện đó. Họ chỉ biết đã phải trả cho chuyến đi bằng số tiền mà họ đã dành dụm cả đời, và ngỡ rằng nhà cầm quyền xứ họ sẽ giúp họ đi lánh nạn chiến tranh và sẽ đưa họ đến một nơi an toàn. Nhưng khi đặt chân lên tàu thì họ mới thấy hỡi ơi, nhưng đành đi đại còn hơn là quay về để phải bị bắt ở tù, đi cải tạo, hay bị giết chết. Trước mắt thì chánh quyền Hồng Kông phải tìm cho ra ai là kẻ đứng sau những vụ buôn người bất hợp pháp này. Mặc dù SKYLUCK đăng ký gốc tại Panama, nhưng lại là tàu chở hàng của một công ty vận tải đường biển ngay tại Kowloon (công ty chỉ có một chiếc.) Té ra một phần của vấn nạn này lại là của địa phương. Các phiên tòa và các cuộc thẩm vấn tại sở cảnh sát đã diễn ra hàng tuần hầu mong tìm thêm manh mối, nhưng rốt cuộc vẫn không ai chịu khai báo gì thêm.
Nhưng rồi các dữ kiện cũng từ từ hé lộ. Thật ra là chuyến vượt biển đã xuất phát từ Bến Tre, Việt Nam, nơi mà 3,466 người đã phải trả bằng vàng lượng (là đơn vị đo trọng lượng vàng căn bản tại Á Châu, phổ thông nhất tại Trung Quốc và Việt Nam) để vượt biên bằng tàu SKYLUCK, một chiếc tàu hàng cỡ lớn với trọng tải 3,506 tấn.
Vào năm 1979 thì một lượng vàng 24K tương đương khoảng 350 đô la Mỹ, và giá cho người lớn là 12 lượng, trẻ em từ 5 tới 15 tuổi là 1 lượng rưỡi, dưới 5 tuổi là 1 lượng mỗi người. Tính ra, một gia đình trung bình 5 người đã phải trả từ 8,000 tới 10,000 đô, và đối với đại đa số thì đó là số của cải mà họ đã phải dành dụm cả đời mới có được. Đối với nhiều người trong số họ, đây lại là chuyến vượt biển lần thứ ba, tính ra giá họ phải trả quả là cao.
Sau khi rời khỏi hải phận Việt Nam, vài chữ trong tên SKYLUCK đã được sơn lấp đi để trở thành KYLU, là tên của một chiếc tàu hàng gỉ sét mang quốc tịch Panama. Sau khi đổ đại 600 người tị nạn xuống Palawan, thủy thủ đoàn lại sơn lại tên SKYLUCK, và trực chỉ Hồng Kông .
Vấn đề thuyết phục các người tị nạn trên tàu là đời sống trên tàu coi vậy vẫn còn đỡ hơn đời sống khổ cực trong các trại tị nạn thật ra không khó. Tuy nhiên trường hợp này lại không đơn giản vậy. Vấn đề chính là hầu hết những người tị nạn trên tàu đã đến từ các vùng nông thôn nên chưa hề có cảm tình hay kinh nghiệm gì với biển cả. Đa số họ chưa bao giờ rời nơi sanh trưởng, và cả đời cũng chưa bao giờ trông thấy một chiếc tàu sắt khổng lồ như vậy.
Sống trên biển suốt một tháng trời trong một chiếc tàu du lịch viễn dương là khoảng thời gian tối đa mà hầu hết mọi người có thể chịu được, cho dù được hưởng mọi tiện nghi vật chất như ăn ngon, mặc ấm, chăn êm, có không gian thư giãn, có chỗ thoáng mát, và tương đối tự do. Dù vậy vẫn phải chịu mùi tanh của biển, mùi hôi của dầu máy, hít thở không khí mặn, mùi sơn, cảm giác buồn nôn, sóng nhồi, dông bão, và còn nhiều thứ khác… Thành ra khó có thể tưởng tượng được một chuyến hải trình dài 155 ngày trên một chiếc tàu chở hàng, sống trong thùng cạc-tông, không có nhà vệ sinh và không có chỗ nào riêng tư.
Ai cũng hiểu rằng sự bế tắc này trước sau gì cũng phải được giải quyết. Biện pháp giải quyết sẽ đến từ việc cảnh sát thẩm tra thuyền trưởng và thủy thủ đoàn của con tàu, hay đến từ những góp ý của toàn thế giới? Nhưng chung cuộc không phải vậy. Các người tị nạn rốt cuộc chịu hết nổi, và mọi việc bắt đầu khi một số người nhảy đại xuống biển và bơi vào đảo Lamma. Tiếp theo sau, hơn 400 người đã leo xuống cầu tàu nối vào một xà lan bên cạnh chiếc SKYLUCK, giơ cao các biểu ngữ và các tấm bảng nguệch ngoạc đòi phải được đưa vào bờ, phải được phép thư từ liên lạc với thân nhân, phải được tiếp xúc với phái đoàn Liên Hiệp Quốc, v.v. Chánh quyền Hồng Kông thấy rõ ràng là tình huống này sẽ có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.
Ngay sau đó, nhóm cầm đầu của những người tị nạn được báo cho biết là họ đã bị coi như những người nhập cư bất hợp pháp, và sẽ bị đưa ra tòa. So với những gì mà họ đã phải trải qua, thì lời hăm dọa này chẳng nghĩa lý gì. Tuy nhiên, sau khi ý thức được rằng sẽ không có quốc gia nào nhận họ nếu họ bị tòa tuyên phạt, và có tiền án hình sự, lúc đó thì họ mới đồng ý tiếp tục cam tâm chờ đợi thay vì nổi loạn. Nhờ vậy mà trật tự đã được vãn hồi trong vài tháng. Phải kể là người tị nạn cũng đã ý thức rõ là người dân Hồng Kông, tuy thông cảm với hoàn cảnh đáng thương của họ, nhưng vẫn biết là chính phủ đã phải chi ra một ngân khoản không nhỏ để lo cho người tị nạn thay vì dành cho những nhu cầu thiết yếu trong việc cung cấp chỗ ở và cải tiến các điều kiện xã hội khác cho chính người dân Hồng Kông. Điều này một phần nào đã khiến cho dân địa phương cảm thông hơn với người tị nạn, và cảm thấy đồng cảnh tương lân.
Nhưng năm tháng sau, trong một ngày nắng đẹp tuyệt vời của tháng 6, bỗng dưng người ta nhìn thấy chiếc SKYLUCK trôi ra. Dây neo của tàu đã bị cắt. Sau cùng, chiếc tàu va vào ghềnh đá của đảo Lamma, gẫy ngang hông. Người tị nạn đã không còn chịu đựng được nữa. Quả là một hành động liều mạng, và khi làm vậy, họ đã tự quyết chuyện sống chết của chính mình. Chiếc tàu đã có thể va vào các rặng đá chỗ khác, và rất nhiều người đã có thể chết thảm. Mặc dù phải lên án hành động này, nhưng mọi người cũng xót xa cho những người đàn ông, đàn bà, và trẻ em đã phải sống suốt 155 ngày trong thân xác của con tàu gỉ sét đó.
Giờ thì các cơ quan thẩm quyền bắt buộc phải hành động. Một chiến dịch cứu cấp khẩn đã được phát động ngay bởi Bộ Trưởng Bộ An Ninh, Giám Đốc Cảnh Sát Cảng, Giám Đốc Nha Cải Huấn, và các ban ngành khác. Khi thân tàu bắt đầu vô nước, con tàu cũ kỹ này nghiêng hẳn về một bên, và một dòng người từ đó tuôn ra, run rẩy trèo lên những gành đá phủ đầy cây dại phía đông bắc đảo Lamma.
Các cơ quan thẩm quyền đã phải thực hiện một công tác tưởng chừng như không thể, là chuyển hết 2,165 người tị nạn tới trại Chimawan trên đảo Lantao từ 9 giờ sáng khi họ vừa hay tin tàu đã bị cắt neo cho tới tận nửa đêm… Mãi cho tới tháng Chín năm đó mới có được một nhóm tị nạn đầu tiên được rời đi định cư tại Hoa Kỳ.
Chiếc SKYLUCK đã được dùng như một con bài tẩy trong thương vụ buôn những chuyến “hàng người” béo bở của một số quốc gia không có lương tri. Con tàu đã được chính quyền Hồng Kông dùng như một lời khuyến cáo cho các quốc gia khác là các anh không thể đưa một chiếc tàu lớn chở hàng ngàn người vào hải phận của quốc gia khác, tống đại số hàng “người” này xuống, rồi cho rằng quốc gia đó sẽ dang tay đón nhận 3,000 sinh linh đó một cách hồ hởi.
Việc này cũng khiến mọi người phải xét xem lý do gì đã khiến cho biết bao nhiêu người đã phải cắn răng rời bỏ quê hương của chính mình, ra đi trên những con tàu không tên, không đủ tiêu chuẩn hàng hải… những điều mà con người bình thường không thể nào làm một cách vô ý thức. Vấn đề chính là họ đã không thể nào sống được trên một đất nước mà đàn ông bị cưỡng ép phải trình diện học tập cải tạo và chấp nhận một lý tưởng chính trị khác. Trên một phương diện nào đó, dường như chiếc SKYLUCK đã làm một cuộc hành trình cuối đến nơi an nghỉ trên đảo. Số hàng “người” của nó cũng không thể chịu đựng lâu hơn. Qua cách phá nhà tù nổi của họ, họ cũng đã tháo gỡ được một bế tắc. Con tàu đã chìm, bắt buộc số hàng “người” trên đó phải được thả ra. Đó chỉ là một hành động. Việc cả nước thiếu ăn, một cuộc cải cách điền địa bất công và phi lý, một cuộc chiến toàn quốc, một đất nước mất đi giờ phải chia hai – tất cả các nguyên nhân này cộng lại đã khởi động cho một cuộc di dân vĩ đại nhất trong lịch sử cận đại. SKYLUCK chỉ là một con tàu trong cuộc di dân vĩ đại đó, nhưng nó đã trở thành một biểu trưng cho nguyên nhân khởi động cuộc chiến Việt Nam.
Qua những thảm cảnh đau thương của bi kịch này, và qua việc phải chọn lấy sự sống bằng mọi giá, những người tị nạn này đã nẩy sinh ra một mối tương quan mật thiết với nhau. Kể từ những ngày tháng đó trở đi, suốt đời họ sẽ mãi mãi là những “Skyluckers,” những người vượt biên trên tàu Skyluck. Đó đã là một chuyến đi nhớ đời trên mọi khía cạnh. Một chuyến đi đã lột xác mọi người, trong đó, cấp bậc hay địa vị xã hội không còn ý nghĩa gì hết. Đó đã là một chuyến đi san bằng mọi khác biệt, để từ đó, mọi người học được bài học khiêm cung, và có một niềm tin chung là trong đời, mọi việc đều có thể. Đó đã là một bài học “để đời.” Các “Skyluckers” giờ đây đã phiêu bạt khắp nơi trên trái đất. Trong chuyến đi này, lại có một điều đặc biệt nổi cộm trên tất cả mọi vấn đề khác, là người ta không thể chặn đứng việc buôn người bằng cách xử phạt những nạn nhân vô tội.
Năm 1980, xác chiếc SKYLUCK cuối cùng đã được vớt lên, và kéo từ đảo Lamma tới bãi phá tàu Tseung Kwan O, còn được gọi là “Vịnh Phế Thải” trong vùng Tân Địa của Hồng Kông. Tại nơi đây, thân tàu đã được cắt ra thành sắt phế liệu với giá thành tổng cộng khoảng 500,000 đô la Hồng Kông.
Chiếc MV Waimate, trọng tải 35,000 tấn đã được đặt bởi Union Steamship Company của Tân Tây Lan vào năm 1951, và đóng bởi công ty Henry Robb Shipyard ở thành phố Leith, Tô Cách Lan như một tàu hạng K mang số 398. Sau thời gian phục vụ tại Tân Tây Lan và vài lần thay tên như Eastern Planet, chiếc tàu đã được công ty Skyluck Steamship Company (viết tắt là SCC) tại Hồng Kông mua lại từ một công ty Phi Luật Tân. Công ty SCC chỉ có một chiếc tàu đăng ký: Chiếc Skyluck. Sau khi thuộc sở hữu của SCC, chiếc Skyluck thường xuyên chở hàng trên tuyến biển Hồng Kông, Đài Loan, Nam Dương, và Băng Cốc.
Jon Davison
SOURCES & RESEARCH
Talbot Bashall – Personal diaries
John H. Grieve ‘Three days in the life of the Skyluck – 1979’
Hong Kong Government Information Services – News clippings 1979
The Hong Kong Star – various newspaper stories 1979
Photo of MV Waimate in Apia 1961, courtesy New Zealand Ship & Marine Society (http://www.nzshipmarine.com)
Photo: MV Waimate in Auckland NZ – courtesy of Stephen Chester, photographer.
--- Trích từ sách "Thuyền Nhân, nước mắt biển đông từ sau biến cố 30/4/1975" của Carina Hoàng và được sự chấp thuận của tác giả ---
Related Articles
Vượt Biển Đến Úc
Có nhiều cuộc vượt biên bằng ghe thuyền được viết và phổ biến trong suốt thời gian dài trên bốn mươi năm mà phần lớn trong những trường hợp đầy thương tâm và chết chóc trên biển cả. Trường hợp của nhóm chúng tôi gồm một tàu hoa tiêu (pilot boat) …
Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma
Trong suốt sáu tháng tôi sống nhờ vào một chén cơm với muối mỗi ngày. Tôi là một tù nhân, bị giam bởi vì một vài công an đã kết luận tôi là một điệp viên CIA khi họ tìm thấy tấm ảnh của tôi với một người Mỹ…
Mẹ Tôi
Sau ngày Sài Gòn thất thủ, gia đình tôi đã trải qua một cuộc đổi đời biển dâu dưới chế độ Cộng Sản. Mong cho các con có được một đời sống tốt đẹp hơn, Ba Mẹ tôi đã quyết định cho các con đi vượt biên, chia làm nhiều đợt. Lý do đơn giản là lỡ có xui xẻo gì xảy ra dọc đường hay trên biển, thì dẫu có là một mất mát đớn đau cho cả nhà, nhưng không đến nỗi phải mất hết…
Mấy đứa con gái, mấy đứa con gái kìa! Giấu tụi nó đi!
Chúng tôi đã đủ lớn để giấu mình, và chúng tôi đã nhảy lên lập tức và bò vào chỗ bọn họ không thể nhìn thấy. Có hai người bọn họ, qua đôi mắt bảy tuổi của mình, tôi thấy họ cầm những thanh kiếm ánh lên vẻ tàn nhẫn khi họ nhảy lên thuyền của chúng tôi…
Sống Để Kể Lại
Kể từ khi vượt biên khỏi Việt Nam, hai mươi lăm năm trước, tâm trí tôi vẫn liên tục nghĩ đến hai người chị/em – hai trong số một tá phụ nữ trên con thuyền của tôi bị cưỡng hiếp, bị tra tấn và bị tước đoạt phẩm giá. Là một thanh niên, tôi chưa từng cảm thấy mình vô dụng đến vậy. Tôi thường tự hỏi nếu những người phụ nữ đó đã có thể tiếp tục sống, liệu họ có chịu tiếp nhận tình yêu của một người đàn ông? Liệu họ có thấy được vẻ đẹp hay giá trị sự sống?
Công Tử Vượt Biên
Mỗi lần thất bại như vậy, tôi lại càng thấy rõ sự trưởng thành và quyết tâm của y. Bẩy lần vượt biên không làm y nản chí mà trái lại càng làm y thêm kinh nghiệm và mưu lược hơn. Trong cuộc đời tôi, y là người bạn tôi mến phục và học hỏi được nhiều nhất.
Con Tàu Cap Anamur
Tác giả: Norman Aisbett Dịch giả: Thành Đặng Không một bản đồ nào có thể biểu hiện sự biến đổi lớn lao, mạnh mẽ của vùng biển Nam Hải và Vịnh Thái Lan. Ta phải lướt trên cái khoảng trống bao la đó, ngày qua ngày, không một bóng dáng đất liền trong tầm mắt, mới cảm...
Tìm Đường Tự Do
Nguyễn Tài Ngọc Người Việt ở ngoại quốc không ai không biết chữ "boat people -thuyền nhân”. Sau biến cố tháng 4 năm 1975, cả trăm nghìn quân nhân bị gửi đi cải tạo và cả trăm nghìn dân sự bị gửi đi vùng kinh tế mới. Theo những tài liệu tìm tòi của Hoa Kỳ và các quốc...
Hành Trình của Chuyến Đi Tha Hương Không Hồi Kết
Sau biến cố năm 1975, ở Việt Nam có một làn sóng vượt biên mạnh mẽ. Có rất nhiều người di tản vượt biên bằng đường biển và đường bộ, nhưng phương tiện được nhiều người sử dụng nhất là đường biển…
Thuyền Nhân Việt Nam trên Đất Úc
Vào cuối tháng 4 năm 1975, chính quyền Cộng Sản Bắc Việt đã xâm lăng miền Nam Việt Nam. Người dân không sống nổi dưới chế độ Cộng Sản nên sau đó họ đã kiếm đường ra đi tìm tự do…