Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma
Tác giả: Mẹ của Lyma
Trong suốt sáu tháng tôi sống nhờ vào một chén cơm với muối mỗi ngày. Tôi là một tù nhân, bị giam bởi vì một vài công an đã kết luận tôi là một điệp viên CIA khi họ tìm thấy tấm ảnh của tôi với một người Mỹ. Tôi đã giải thích rằng ông ta từng là giáo viên dạy tiếng Anh của tôi, và tấm ảnh được chụp tại buổi tiệc chia tay của ông ta, nhưng điều đó không gây chút ấn tượng nào. Chồng tôi cũng bị giam giữ không hề có lý do và cũng không xét xử. Rất nhiều lần nhà của chúng tôi bị khám xét bất ngờ bởi chính quyền bất cứ khi nào họ thuận tiện để làm chuyện đó. Không thể đoán trước – và rất đáng sợ. Chúng tôi bị tước đoạt tài sản.
Đây là hiện thực cay đắng của chúng tôi.
Tôi đang có thai đứa con đầu lòng khi tôi bị ném vào tù. Mỗi ngày trôi qua, bụng của tôi tiếp tục to lên trong khi những phần còn lại teo thành một nhúm xương và da. Tôi không có đủ phần ăn của một người, đừng nói là hai, và tôi suýt chút nữa mất con. Ý nghĩ mất đi đứa bé là quá sức không thể chịu đựng nổi, hầu hết thời gian tôi chỉ muốn cuộn người lại và chết.
Nhưng có nhiều khi tôi nghĩ chúng tôi đều có thể trụ được, vào những khoảnh khắc đó tôi kiên quyết ngay khi chúng tôi được thả, vợ chồng tôi sẽ vượt biên thoát khỏi đất nước này với đứa con mới chào đời của mình.
Năm 1987, tôi sinh con một vài tuần sau khi tôi được ra tù. Đó là một phước lành, khi vợ chồng tôi được đoàn tụ để chứng kiến con bé của chúng tôi hít hơi thở đầu tiên trong thế giới rối rắm này. Con bé nặng hai kí mốt, chúng tôi đặt tên cho bé là Uyên Nguyễn. Con bé có chút xíu nhưng xinh xắn. Nhưng không phải chuyện gì cũng tốt đẹp, nhà chúng tôi đã biến thành một đống đổ nát, chỉ còn lại cái khung sườn.
Khi Uyên chỉ mới biết bò, chúng tôi xác định đã đến lúc trốn khỏi đất nước này. Với những thỏa thuận được dàn xếp, chúng tôi trườn người trên chiếc thuyền sẽ đưa chúng tôi đi xa, cùng với hàng trăm người khác và hy vọng tìm tự do và tự chủ cho cuộc đời.
Chúng tôi chiến đấu với biển cả, những cơn sóng cuồn cuộn và thời tiết như nước lũ trong sáu ngày đầu tiên của cuộc hải trình. Vào đêm thứ sáu, điều kiện ôn hoà hơn, thuyền trưởng đã có một quyết định định mệnh.
Chúng tôi nhắm đến một hòn đảo ở rất xa. Có lẽ đây sẽ là trụ đỡ đầu tiên trên hành trình đến tự do của chúng tôi. Có điều, không ai trong chúng tôi lúc đó biết là hồi ban đầu cuộc hải trình, người thuyền trưởng đã phạm một lỗi về định hướng vô cùng nghiêm trọng. Một phần vì liều lĩnh, một phần do kích động, thuyền trưởng cho tàu tiến thẳng đến đảo. Khi chúng tôi đến gần, chúng tôi thấy trên bãi biển một dòng chữ lớn tiếng Việt: Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.
Chúng tôi vẫn còn ở Việt Nam!
Vị thuyền trưởng đảo chiều chiếc thuyền và cố tiến xa khỏi hòn đảo càng nhanh càng tốt trong khi những người mặc đồng phục lao xuống đồi hướng về chúng tôi mà bắn. Những người lính nhảy lên một chiếc thuyền tuần tra và bắt đầu đuổi theo chúng tôi. Tôi ôm ghì lấy Uyên trong vòng tay run rẩy khi kinh hoàng và hoang mang đã tràn ngập thuyền chúng tôi. Chồng tôi ôm chúng tôi thật chặt. Chúng tôi có một cảm giác tồi tệ, chúng tôi sắp tiêu rồi.
Cộng sản chẳng mấy khó khăn đã bắt được chúng tôi, họ kéo chiếc thuyền trở lại đảo. Chúng tôi được ở ngay trên bãi biển và được cho những tấm nhựa để che chắn. Họ bắt chúng tôi trả tiền cho thức ăn – cơm và cá ươn. Và khi chúng tôi không có đủ tiền mua thức ăn nữa, họ ném chúng tôi vào tù.
Tôi đã nghĩ tôi đã quen với những điều kiện khắc nghiệt, nhưng tôi chưa từng thấy cái gì khủng khiếp đến vậy. Nhà tù là một kiến trúc gỗ bao gồm hai phòng lớn – một cho nam và phòng còn lại cho nữ. Hai trăm con người bị nhồi vào mỗi phòng chật đến nỗi chúng tôi nằm vai kề vai. Mỗi phòng được phát một cái thùng cho mục đích vệ sinh – một cái thùng cho hai trăm người. Cho đến hôm nay tôi chưa từng cảm thấy nhục nhã nào như tôi đã từng chịu khi đó.
Uyên và tôi được thả ra vài tháng trước khi chồng tôi vượt ngục. Anh lo ngại rằng anh có thể bị tống vào tù lần nữa nếu chúng tôi trở về nhà, nên chúng tôi sống ở những nơi tách biệt với gia đình và bạn bè của mỗi chúng tôi. Làm vậy an toàn hơn.
Sống ở Việt Nam đã trở nên khó khăn. Chúng tôi đã quên rằng cảm giác có được tự do, hy vọng và hạnh phúc là như thế nào. Quyết tâm rời khỏi đất nước của chúng tôi mạnh thêm.
Tôi đang có mang tháng thứ chín đứa con thứ hai khi chúng tôi vượt biên lần nữa. Uyên lớn lên rất nhanh, vừa lên bốn tuổi. Chúng tôi chỉ có 24 giờ để đóng gói hành lý của mình. Người tổ chức con thuyền cảm thấy nguy cơ bị bắt ít hơn nếu chúng tôi rời đi trong lúc thời tiết khắc nghiệt, và ông ta đã thấy thời cơ của chúng tôi đang đến gần.
Cơn bão dữ tợn hơn ông ta dự đoán rất nhiều. Con thuyền nhỏ của chúng tôi bị tung lên cao trên những đợt sóng khổng lồ, rồi nó lại cắm đầu xuống giữa những đợt sóng nước đen, đẩy dạt ra hai bên những xác người đã chùn bước trước sự hiểm nguy của biển cả – đàn ông, phụ nữ và trẻ con, những người đã trốn đi trước chúng tôi. Chúng tôi cũng ớn lạnh nhận thấy cá mập và những sinh vật biển nguy hiểm khác bao quanh chúng tôi. Thêm vào đó, hoàn cảnh của chúng tôi: bị lèn như cá mòi và mọi người đang nôn mửa lên nhau.
Và tôi đã chuyển dạ ngay khi chúng tôi còn ở trên Biển Đông. Cơn đau không thể chịu nổi hết lần này đến lần khác, và sự đau đớn kéo dài năm ngày. Sinh nở khó khăn hơn rất, rất nhiều so với lần đầu của tôi. Tôi không thể ăn uống, một viễn ảnh khủng khiếp về việc chết rục trên biển trước mắt. Trong cơn mê sảng, tôi thấy khó khăn để phân biệt giữa sống và chết, và khi ngày dần qua tôi trở nên chắc chắn cái chết đang tới gần mình.
Chồng tôi an ủi tôi hết mức anh có thể. Để sinh con trong khi chiếc thuyền đang rung lắc dữ dội như vậy sẽ cần một dạng phép lạ nào đó. Tôi vẫn trong cơn đau quặn thắt và hy vọng nhanh chóng biết mất khi thuyền chúng tôi đi ngang qua một giàn khoan dầu.
Mọi chuyện diễn ra nhanh chóng. Họ nhấc chúng tôi khỏi chiếc thuyền tơi tả và giữ chúng tôi trên giàn khoan trong bảy ngày. Trong khi mọi người, bao gồm chồng tôi và Uyên, được đưa đến đảo Kuku bằng tàu, tôi được không vận đến đó.
Khi tôi nằm trên cáng, vẫn trong cơn đau cực độ, tôi đã đánh vật để hiểu được những gì người ta đang nói với tôi. Trong một nỗ lực để phân tán tôi khỏi cơn đau, một trong những viên phi công cố nói chuyện với tôi, mặc dù tôi đang ngầy ngật lúc mê lúc tỉnh, tôi có nghe anh ta gợi ý rằng tôi đặt tên con ‘Lyma’ đi, nếu nó là một bé gái. Tôi rất biết ơn vì sự chăm sóc và không hề nghĩ đến chuyện hỏi anh ta tại sao lại là tên đó. Tôi chỉ gật đầu. Và khi tôi sinh ra một bé gái tôi đã làm theo, đặt tên con bé là Lyma, không biết được nó có nghĩa gì hay từ đâu đến.
Một bác sĩ và một y tá giúp tôi trong việc sinh nở. Tôi có những cảm xúc lẫn lộn: được an ủi khi biết rằng đứa con mới sinh của tôi và tôi đã an toàn, nhưng đau xé lòng khi chồng tôi đã không đến Kuku kịp lúc để ở bên tôi. Lyma được sinh ra trong tình trạng sức khoẻ tốt. Đó là một ca sinh nở kỳ diệu, trong hoàn cảnh mà tôi trải qua.
Chồng tôi và Uyên đến đảo nửa ngày sau. Một tháng sau khi sinh, chúng tôi được chuyển đến đảo Galang, nơi một trung tâm tỵ nạn sẽ quyết định số phận của chúng tôi.
Không lâu sau tôi có mang đứa con thứ ba. Lần này là một đứa con trai, thằng bé được sinh ra trong hoàn cảnh ít hiểm nghèo hơn. Kasdyanto Tin Quốc Nguyễn chào đời tại Trại Tỵ Nạn Galang vào năm 1983, cùng năm đó chúng tôi được chấp thuận là dân nhập cư đến Perth, Tây Úc. Sau một cuộc chờ đợi mòn mỏi, chúng tôi đã có được may mắn và sự ổn định đã trốn tránh chúng tôi khá lâu.
Ngay cả bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn bị nhấn chìm bởi cảm giác hoài nghi rằng sao tôi vẫn còn sống. Tôi không bao giờ có thể dự đoán được chuyện mình trở thành mẹ của ba đứa con trong khi vượt biển trốn thoát quê nhà, nhưng đó chuyện thực sự diễn ra theo cái cách mà nó muốn. Tôi vẫn không có tí ý tưởng nào về cái tên Lyma có thể có nghĩa gì. Có ai đó ngoài kia rọi vào chút ánh sáng không?
Mẹ của Lyma
--- Trích từ sách "Thuyền Nhân, nước mắt biển đông từ sau biến cố 30/4/1975" của Carina Hoàng và được sự chấp thuận của tác giả ---
Related Articles
Cụm Bèo Lục Bình
Thấm thoát đã gần 21 năm lưu lạc nơi xứ người, mấy đứa con của chúng tôi bây giờ đã lớn. Tôi cũng thường kể lại chuyện cũ cho chúng nghe, luôn cả chuyện về anh chàng thanh niên trẻ đó. Và tôi cũng thường nhủ lòng rằng phải ráng lên để…
SOS!Cứu chúng tôi với!
Hồi tưởng lại thảm kịch vượt biên của người Việt, hiểm nguy, chết chóc, cướp biển, hãm hiếp, mất hết tiền bạc, trái tim tôi dường như vẫn còn đau nhói. Nhưng mặt khác tôi có dịp giúp đỡ các cháu không thân nhân, thật là một thời gian sống có ý nghĩa.
Hồi Ký Hải Hành Tìm Tự Do
Bốn bề là nước trong xanh, nắng chiếu gay gắt nên chúng tôi mệt lả vì thiếu nước. Đêm đến đen kịt một mầu, không thấy chi hết, chỉ nằm im, không dám đi đâu vì sợ lọt xuống biển.