Sống Để Kể Lại

07/01/2021 | Hành Trình Vượt Biển

Tác giả: Lộc Mai

 

Kể từ khi vượt biên khỏi Việt Nam, hai mươi lăm năm trước, tâm trí tôi vẫn liên tục nghĩ đến hai người chị/em – hai trong số một tá phụ nữ trên con thuyền của tôi bị cưỡng hiếp, bị tra tấn và bị tước đoạt phẩm giá. Là một thanh niên, tôi chưa từng cảm thấy mình vô dụng đến vậy. Tôi thường tự hỏi nếu những người phụ nữ đó đã có thể tiếp tục sống, liệu họ có chịu tiếp nhận tình yêu của một người đàn ông? Liệu họ có thấy được vẻ đẹp hay giá trị sự sống?

Tôi chỉ vừa mười sáu tuổi khi cha mẹ tôi nài nỉ tôi vượt biên, bởi họ trở nên sợ hãi chuyện tôi sẽ bị bắt nhập ngũ. Những nỗ lực của tôi nhằm thoát khỏi khỏi đất nước xảy ra trong khoảng bốn năm. Tôi đã bị lừa nhiều hơn số lần tôi có thể đếm trên một bàn tay; những lần khác thì chính quyền địa phương bắt được tôi.

Mãi đến tận tháng 8 năm 1985, tôi cuối cùng cũng thành công. Tôi rời đi cùng hai mươi người khác – hai trong số họ là chị tôi và người anh rể – trên một chiếc thuyền có mái che, đo được hai mét chiều rộng và mười sáu mét chiều dài. Rắc rối bắt đầu ngay khi chúng tôi ra ngoài khơi: ngày đầu tiên chúng tôi gặp một cơn bão dữ dội làm tê liệt động cơ của thuyền và để mặc chúng tôi trôi đi. Chúng tôi không thể thấy gì ngoài đường chân trời. Không đất liền, không dấu hiệu sự sống. Tất cả là hai mươi mốt thuyền nhân mòn mỏi với ý nghĩ rằng họ có thể chết bất cứ lúc nào.

Nhưng chúng tôi không đơn độc lâu.

Chẳng thể nhầm bọn chúng với ai khác được. Những cái xà-rông chúng mặc là một dấu hiệu nhận biết. Và sự đe doạ của chúng ở trong không khí. Mặc dù vậy, chúng tôi chẳng hình dung nổi những tên cướp biển Thái này có thể làm gì.

Chúng tôi bị lột bỏ quần áo một cách thô bạo khi chúng lục soát tìm những thứ có giá trị. Những người đàn ông bị bắt ở lại thuyền và bị tách ra khỏi phụ nữ và con gái, chúng lùa hết phụ nữ lên thuyền của chúng. Chúng buộc hai chiếc thuyền lại với nhau. Rồi, với những biểu hiệu dâm đãng trên mặt chúng, những tên cướp biển xem xét kỹ lưỡng mỗi một phụ nữ. Chúng tha cho hai người trong số họ, và tôi đã biết ơn sâu sắc vì một trong hai người họ là chị tôi – dù vậy, tôi tự bảo đảm sự nhẹ nhõm đã không hiện lên trên mặt. Hành động đã cứu hai người này là, từ khi lên thuyền của chúng, hai người đã gục xuống và nằm im bất động, biểu hiện như hai cái xác chết.

Trong năm ngày chúng nó cưỡng hiếp những người phụ nữ và đám con gái điên cuồng, hết lần này đến lần khác. Tất cả chuyện này diễn ra trước mắt một bé trai năm tuổi và đứa em gái ba tuổi của nó, tụi nó bị đưa lên thuyền cùng với người mẹ đang khiếp sợ.

Rồi bọn chúng cũng thả chúng tôi. Nhưng ba ngày sau chúng tôi lại bị bắt bởi một toán cướp biển khác. Sự thật chúng tôi không còn gì để chúng cướp làm chúng rất tức giận, chúng nhổ những chiếc răng vàng của chúng tôi bằng kìm và đập chúng tôi một trận thừa sống thiếu chết sau đó. Chúng tôi đã cố đánh trả nhưng mọi cố gắng của chúng tôi đều vô ích – bọn chúng đông hơn chúng tôi và, hơn hẳn chúng tôi, chúng có vũ khí. Chúng tôi biết rằng chúng tôi đã hoàn toàn thua cuộc khi chúng đem phụ nữ và con gái đi mất.

Tổng cộng có mười hai người nữ. Ba trong số họ đã có gia đình. Người phụ nữ lớn tuổi nhất khoảng năm hay sáu mươi tuổi. Ba trong số họ là chị em, tuổi khoảng mười ba đến mười bốn. Một lần nữa, hai đứa trẻ bị buộc phải chứng kiến. Bất kỳ ai, không kể tuổi tác, cũng không nên chứng kiến điều chúng tôi đã thấy.

Một thiếu nữ người Trung Quốc xinh đẹp bị bắt lấy bởi tên thuyền trưởng cướp biển và bị giam trong buồng của hắn. Mỗi đêm chúng tôi có thể thấy bóng của cô ta qua cửa sổ. Cái bóng của thân thể mong manh của cô còn động đậy là dấu hiệu duy nhất cho biết cô vẫn còn sống.

Sự tuyệt vọng dâng cao đến nỗi nó trở nên quá sức chịu đựng để mà suy nghĩ hay nhắm mắt ngủ. Chúng tôi cảm thấy bị đánh bại, bị nhục mạ và hoàn toàn bất lực. Và chúng tôi đau đớn thấu tim bởi cảm giác tội lỗi đã quá thiếu chuẩn bị, bởi không đánh trả lại đủ mạnh, bởi không thể bảo vệ những người phụ nữ của chúng tôi.

Đang lúc đó thì một toán cướp biển thứ ba thách thức những kẻ đang bắt giữ chúng tôi cho món mồi của chúng. Bấy giờ chúng tôi hầu như đã trở nên hờ hững. Chúng tôi không có gì để mất nữa, nếu bọn cướp mới này thắng cuộc; chúng tôi thờ ơ nhìn hai toán cướp đánh nhau. Sau cùng những kẻ mới đến lái thuyền đi mất.

Vậy nghĩa là không có gì thay đổi. Chúng tôi vẫn đang trôi dạt trên vùng biển bị bão tàn phá và vẫn là tù nhân trông chờ lòng thương hại của bọn cướp biển.

Rồi có một biến đổi quan trọng trong tình cảnh của chúng tôi: chúng tôi thức dậy vào một đêm nọ phát hiện bọn cướp biển đã biến mất, những người phụ nữ và con nít cũng biến mất cùng chúng. Sự hoang mang tràn ngập cả con thuyền. Dĩ nhiên chúng tôi lo sợ chuyện tồi tệ nhất. Lũ khốn nạn đó đưa những người thân yêu của chúng tôi đi đâu? Chúng đã cướp của chúng tôi chưa đủ sao?

Bất cứ khi nào tôi cố mà ngủ được tôi đều gặp ác mộng kinh khiếp. Tôi tồn tại trong một tình trạng vô vọng giữa những thân người nhìn như chết rồi nằm ngổn ngang khắp thuyền.

Mỗi khi trời mưa, dù chỉ một lượng mưa nhỏ xíu, một đống thân người bò lên những tấm nhựa, liếm lấy từng giọt cho đến khi lưỡi chúng tôi chảy máu.

Rồi ai đó phát hiện một cái bóng đen nhỏ phía chân trời. Nó đang hướng về phía chúng tôi và một bầu không khí đầy đe doạ bao trùm. Chúng tôi lại ôm lấy nhau, nhưng lần này chúng tôi gần như cam lòng chịu chết.

Khi chiếc thuyền đến gần hơn chúng tôi nhận ra bọn cướp biển trở lại, và chúng tôi có thể nhìn thấy những người phụ nữ trên thuyền. Dù không chắc điều gì đang xảy ra, chúng tôi thở dài nhẹ nhõm. Hoá ra rằng sợi dây buộc hai con thuyền lại với nhau đã bị đứt khi trời tối, và bọn họ đã trôi đi. Khi những người nữ nhận ra sự thật choáng váng rằng những người chồng, người anh/em và người cha của họ không còn trong tầm mắt, họ đã cầu xin những kẻ bắt giữ trở lại tìm chúng tôi, đe doạ sẽ tự tử nếu bọn chúng từ chối. Tạ ơn trời, bọn cướp biển thực vẫn còn một ít lòng nhân đạo, và bọn chúng đem họ quay trở lại.

Khi những người phụ nữ trở lại thuyền, chúng tôi thấy quần áo của họ đã bị xé thành từng mảnh, cái rách rưới như thể là đã lấy đi từ họ bất kỳ vết tích còn sót lại của phẩm giá. Một vài người bị chảy máu, và hiển nhiên đang đau đớn cùng cực.

Chúng tôi lại tự lo cho mình, lềnh bềnh trôi đi mà không có bản đồ hay kỹ năng định hướng nào. Tôi đã rất gần với cái chết: tôi đã không ăn gì trong nhiều ngày, và được uống rất rất ít nước. Ăn thịt người đã bắt đầu lướt qua tâm trí của chúng tôi. Chuyện này không có nghĩa là có ai trong chúng tôi còn lại chút thịt trên xương mình.

Hoàng là tên của ông. Chúng tôi tình cờ gặp ông ta khi thuyền chúng tôi đang trong hành trình vô định ngang qua đại dương. Ông ta là một người đánh cá Việt Nam, và ông ta đã cứu chúng tôi khỏi cái chết bằng việc cho chúng tôi thức ăn và nước uống, thứ giúp chúng tôi trụ được vài ba ngày tiếp theo.

Rồi chúng tôi băng ngang qua một giàn khoan dầu, người ta có thể chỉ hướng cho chúng tôi đến một hòn đảo của Malaysia được gọi là Terranganu. Đó là dải đất liền đầu tiên chúng tôi nhìn thấy kể từ khi rời khỏi quê nhà. Chúng tôi cập vào bờ biển, nhưng không bao lâu cảnh sát địa phương phong phanh biết được sự kiện một nhóm thuyền nhân người Việt Nam đã đến. Mất bốn giờ để cảnh sát làm các thủ tục giấy tờ cho phép chúng tôi được chuyển đến một trại tị nạn.

Sau mười lăm ngày đêm chúng tôi đã sống sót. Và chúng tôi sẽ sống để kể lại câu chuyện của mình.

Khi chúng tôi đến một trại ở Pulau Bidong, chúng tôi được tuyên bố nhân cách người tị nạn. Chúng tôi không còn chỉ là một nhóm hai mốt người, chúng tôi bị bao quanh bởi mười ngàn người, những người đã ra một quyết định nóng nảy rời khỏi quê nhà với một hy vọng khiêm nhường là kiếm tìm tự do. Họ đều trông giống như chúng tôi: ốm trơ xương với những cặp mắt bị ám ảnh đến nỗi chắc phải mất hàng thập kỷ sau để tìm thấy bình yên.

Phụ nữ thuyền chúng tôi đã tự tách họ khỏi cánh đàn ông. Họ gần như không nói về những dư chấn của mình – hay về bất kỳ gì khác – kể từ khi bị tấn công. Họ được đưa đến bệnh viện để được chăm sóc vết thương và các bệnh lây nhiễm, hai trong số đó phải nằm viện cả tuần. Những người phụ nữ này đã bị tổn thương nghiêm trọng. Mắt họ không còn ánh lên niềm hy vọng và vẻ đẹp mà tôi từng thấy nơi đó. Tôi biết họ cảm thấy bị lợi dụng, vô dụng và tủi nhục.

Khi tôi có chút ổn định trong trại tị nạn, tôi viết thư cho cha mẹ tôi để báo tin chị tôi và tôi đã an toàn. Không nghe được tin tức gì từ tôi trong hơn một tháng, họ chắc hẳn đoán chúng tôi đã chết trên biển cả rồi.

Mùi bánh mì mới nướng trong lò là ký ức mạnh mẽ nhất ở trại này, nơi tôi đã ở trong mười tháng. Thức ăn và nước uống khan hiếm bởi vì những rắc rối trong việc vận chuyển, điều mà làm lộ rõ ra sự tồi tệ của một số người. Tôi cảm thấy xấu hổ vì có liên hệ với những người mà dù đã có đủ thức ăn vẫn cố công đánh cắp nhiều hơn nữa. Nhưng tôi phải nhìn về phía trước. Tự do đang chờ tôi.

Rốt cuộc tôi định cư ở Perth, Tây Úc. Tôi làm việc chăm chỉ tạo dựng một doanh nghiệp kinh doanh trái cây và rau quả phát đạt, nên tôi có thể bảo lãnh cha mẹ tôi đến sống cùng anh/chị/em tôi tại Úc.

Tôi được chẩn đoán mắc chứng thoái hoá mắt, nhưng tôi quyết không để điều này – hay quá khứ của mình – cản trở mình. Tôi đã bắt đầu công việc thiện nguyện ở Việt Nam để giúp đỡ cho những người kém may mắn hơn mình. Và tôi đã phát hiện niềm đam mê làm thơ và chụp ảnh. Có rất nhiều thứ tôi muốn thực hiện trước khi tôi mù hẳn.

Tôi giờ đã biết điều gì thực sự quan trọng. Tôi dự định chia sẻ mọi thứ và cho đi tất cả.

 

Lộc làm việc tại cửa hàng trái cây và rau củ của gia đình tại Perth. Lộc thích chụp ảnh, anh đã xuất bản những cuốn sách ảnh của riêng mình và tặng tất cả lợi nhuận có được cho từ thiện.

 Lộc Mai

--- Trích từ sách "Thuyền Nhân, nước mắt biển đông từ sau biến cố 30/4/1975" của Carina Hoàng và được sự chấp thuận của tác giả ---

Related Articles

Vượt Biển Đến Úc

Vượt Biển Đến Úc

Có nhiều cuộc vượt biên bằng ghe thuyền được viết và phổ biến trong suốt thời gian dài trên bốn mươi năm mà phần lớn trong những trường hợp đầy thương tâm và chết chóc trên biển cả. Trường hợp của nhóm chúng tôi gồm một tàu hoa tiêu (pilot boat) …

Đọc thêm
Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma

Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma

Trong suốt sáu tháng tôi sống nhờ vào một chén cơm với muối mỗi ngày. Tôi là một tù nhân, bị giam bởi vì một vài công an đã kết luận tôi là một điệp viên CIA khi họ tìm thấy tấm ảnh của tôi với một người Mỹ…

Đọc thêm
Mẹ Tôi

Mẹ Tôi

Sau ngày Sài Gòn thất thủ, gia đình tôi đã trải qua một cuộc đổi đời biển dâu dưới chế độ Cộng Sản. Mong cho các con có được một đời sống tốt đẹp hơn, Ba Mẹ tôi đã quyết định cho các con đi vượt biên, chia làm nhiều đợt. Lý do đơn giản là lỡ có xui xẻo gì xảy ra dọc đường hay trên biển, thì dẫu có là một mất mát đớn đau cho cả nhà, nhưng không đến nỗi phải mất hết…

Đọc thêm
Công Tử Vượt Biên

Công Tử Vượt Biên

Mỗi lần thất bại như vậy, tôi lại càng thấy rõ sự trưởng thành và quyết tâm của y. Bẩy lần vượt biên không làm y nản chí mà trái lại càng làm y thêm kinh nghiệm và mưu lược hơn. Trong cuộc đời tôi, y là người bạn tôi mến phục và học hỏi được nhiều nhất.

Đọc thêm
Con Tàu Cap Anamur

Con Tàu Cap Anamur

Tác giả: Norman Aisbett Dịch giả: Thành Đặng Không một bản đồ nào có thể biểu hiện sự biến đổi lớn lao, mạnh mẽ của vùng biển Nam Hải và Vịnh Thái Lan. Ta phải lướt trên cái khoảng trống bao la đó, ngày qua ngày, không một bóng dáng đất liền trong tầm mắt, mới cảm...

Đọc thêm
Tìm Đường Tự Do

Tìm Đường Tự Do

Nguyễn Tài Ngọc Người Việt  ở ngoại quốc không ai không biết chữ "boat people -thuyền nhân”. Sau biến cố tháng 4 năm 1975, cả trăm nghìn quân nhân bị gửi đi cải tạo và cả trăm nghìn dân sự bị gửi đi vùng kinh tế mới. Theo những tài liệu tìm tòi của Hoa Kỳ và các quốc...

Đọc thêm
Vượt Biên Bằng Bè

Vượt Biên Bằng Bè

Mình không có xuồng thì tại sao mình không lấy nhiều cái ruột xe ráp lại thành cái bè? Tôi đem ý nghĩ này bàn với vợ tôi và trấn an vợ tôi rằng “nếu mình đi bằng ghe, thì có thể bị chìm và chết, còn cái bè, tuy lạnh lẽo khổ cực nhưng…

Đọc thêm