Mẹ Tôi

09/01/2021 | Hành Trình Vượt Biển

Tác giả: David Lee

Trong ký ức của tôi, hình ảnh Mẹ luôn là hình ảnh của một người mẹ đầy yêu thương và hy sinh cho một đàn con bảy đứa. Bà thực sự lấy việc nấu nướng, dọn dẹp, và may quần may áo cho cả bảy chị em chúng tôi làm niềm vui.

Sau ngày Sài Gòn thất thủ, gia đình tôi đã trải qua một cuộc đổi đời biển dâu dưới chế độ Cộng Sản. Mong cho các con có được một đời sống tốt đẹp hơn, Ba Mẹ tôi đã quyết định cho các con đi vượt biên, chia làm nhiều đợt. Lý do đơn giản là lỡ có xui xẻo gì xảy ra dọc đường hay trên biển, thì dẫu có là một mất mát đớn đau cho cả nhà, nhưng không đến nỗi phải mất hết. 

Hai người ra đi đầu tiên trong gia đình tôi là hai người chị tôi, lúc đó một người 19 và một người 22 tuổi. Hai chị vượt biên vào tháng Hai năm 1979, và ngay sau đó nhắn tin về là đã tới được bến Mã Lai an toàn. Yên tâm, Ba Mẹ tôi gởi tôi và hai chị tôi đi tiếp. Năm đó tôi 11 tuổi, hai chị một người 13 và một người 24.

Chỉ hai ngày sau khi ba chị em chúng tôi ra đi, bạn có thể hình dung là Ba Mẹ tôi đã hoảng loạn cỡ nào khi nghe tin đồn là tàu của chúng tôi đã bị đắm, và không một ai sống sót. Thật ra thì chúng tôi đã đến Mã Lai bình yên. Chị lớn tôi cố tìm mọi cách nhắn tin về cho Ba Mẹ, nhưng hai ông bà lại không nhận được. Tuy Ba Mẹ tôi vẫn cố nuôi hy vọng, nhưng sau hai tháng không được tin tức gì của chị em chúng tôi, ông bà bắt đầu cảm thấy phải tìm một cách nào đó để đi tìm chúng tôi cho bằng được. Một yếu tố quan trọng trong quyết định này là lúc đó, Mẹ tôi đã có kết quả khám nghiệm lâm sàng là bà đã bị ung thư tử cung, sợ không còn cơ hội gặp lại các con một lần cuối.

Kế hoạch đặt ra lúc đó là Mẹ và em gái út của tôi bảy tuổi sẽ đi trước, và Ba ở lại với anh tôi, lỡ khi họ không đi được phải trở lại. Tháng Sáu năm 1979, Mẹ và em út tôi cùng với Dì tôi lên ghe vượt biên trên một chiếc ghe dài 24 thước nêm cứng với hơn hai trăm nhân mạng. 

Những con người khốn khổ này đã phải trải qua nhiều thảm trạng tủi nhục và tàn nhẫn trong suốt chuyến đi dài mười lăm ngày đêm trên biển, chết mất năm người, trong đó có hai đứa nhỏ.

Chỉ sau bốn ngày trên biển, tàu đã chết máy, thả trôi, và trở thành miếng mồi ngon cho hải tặc Thái Lan. Trong ba lần cướp, lần thứ ba là lần tàn nhẫn nhứt. Lần này, bọn hải tặc khoảng hai mươi tên lùa hết đàn ông con trai lên tàu của họ, bắt đứng xếp hàng, chĩa súng bắt họ hả miệng ra, rồi lấy kềm bẻ hết những ai có răng vàng giữa sự chứng kiến hãi hùng của đám đàn bà con nít.

Sau khi thực hiện xong hành động man rợ này, họ chừa lại vài tên canh giữ đám đàn ông, và còn lại nhảy hết qua tàu vượt biên, lùa đám đàn bà con nít xuống hầm, thay phiên nhau hành hạ và hãm hiếp những cô gái và những người đàn bà trẻ liên tục nhiều tiếng đồng hồ trong tiếng la thét hãi hùng của họ.

Đến xế chiều, họ trở lại tàu của họ, xô hết đám đàn ông xuống biển rồi bỏ chạy, để mặc ai biết bơi thì tự bơi trở lại thuyền. Một nhân chứng sống sót kể lại: “Lúc sụp tối, biển rất êm, và trời đầy sao sáng, nhưng tụi tôi thực sự cảm thấy tuyệt vọng. Đêm đó, trên ghe đầy những than khóc, đớn đau. Thật kinh khủng.”

Sau này, trong những cơn ác mộng, Mẹ vẫn thường mơ thấy ba đứa con lưu lạc – ba chị em tôi – cũng đã chịu cùng chung số phận nghiệt ngã đó. Mẹ ngày đêm cầu nguyện cho mấy chị em tôi được bình yên. Ngồi co quắp trên tàu, tay ghì chặt đứa con gái út mỏng manh đang kiệt sức lả dần, bà đã liên tục trách mình sao lại để cho các con ra đi trong những chuyến đi đầy sóng gió như vậy. Vào ngày thứ mười lăm trên biển, chiếc ghe tỵ nạn đã được một chiếc tàu Na Uy ghé cho thức ăn và nước uống, và trong một cơn bão dữ, đã kéo ghe tỵ nạn tới dảo Kuku, một đảo hoang trong hải phận Nam Dương.

Hoàn cảnh thật nghiệt ngã cho Mẹ. Hoàn toàn không liên lạc gì được với thế giới bên ngoài có nghĩa là bây giờ bà không cách gì biết được số phận của mấy đứa con mất tích, và cũng không cách nào liên lạc được với Ba tôi để báo cho ông hay là bà đã đến được Nam Dương.

Trong những ngày lênh đênh trên biển, Mẹ đã ngã bịnh, và chỉ vài tuần sau khi lên bờ, Mẹ đã từ trần vào ngày 31 tháng 7 năm 1979, trong tuổi 43. Những đau đớn về thể xác giầy vò Mẹ đã đành, nhưng có lẽ nỗi đau mất ba đứa con mà Mẹ tưởng là đã mất, và mặc cảm tội lỗi bỏ lại một đứa con thơ với một tương lai vô định đã hành hạ Mẹ một cách khủng khiếp hơn.

Đã bao nhiêu năm qua, gia đình tôi vẫn thường mơ thấy Mẹ, và khi vừa hay tin Mẹ mất, tôi đã nghĩ ngay tới chuyện phải đi tìm mộ Mẹ bằng mọi cách. Ròng rã hơn mười năm, tôi đã gởi không biết bao nhiêu thơ tới nhiều cơ quan khác nhau tại Nam Dương để tìm thêm những thông tin về đảo Kuku, và cách nào để đi tới đó. Sau cùng, vào năm 1995, tôi nhận được một lá thơ từ Phòng Dịch Vụ Tìm Người Thất Lạc của Hội Hồng Thập Tự Nam Dương cho hay là không cách gì tìm được mộ, vì tên trên mộ bia, nếu có, thì từ năm 1979 tới giờ sẽ không cách chi đọc được.

Tôi có kể cho nhiều người nghe về ước nguyện tìm mộ Mẹ tôi cho bằng được; rồi một ngày, một người bạn cùng sở chỉ cho tôi một trang mạng trong đó kể về câu chuyện của một người phụ nữ Việt tên Carina Hoàng, vượt biên năm 1979, đã từng sống trên đảo Kuku cùng thời gian mà Mẹ tôi sống, đã trở lại Nam Dương năm 1998 để tìm hài cốt của một người anh bà con đã mất tại đó cùng thời gian mà Mẹ tôi mất.

Tôi lập tức gởi điện thư cho Carina, hỏi cách nào đi Kuku. Cô cắt nghĩa là lúc mấy anh em cô đi Kuku thật ra chỉ may phước đi đúng lúc và tìm đúng chỗ thôi. Giống như tôi, họ cũng không được thông tin gì về Kuku trước khi lên đường, nhưng trong những ngày có mặt ở Nam Dương, họ đã được cho đi nhờ trong một chuyến bay của quân đội, trên một chuyến tàu của hải quân, rồi một ghe đánh cá của Nam Dương… tất cả đều do những tình cờ may mắn. Cô hứa sẽ liên lạc với tôi ngay khi có thêm tin tức. Dù Carina đã rất nhiệt tình, nhưng đã không thể chỉ giùm tôi đường đến Kuku được… và một lần nữa, tôi lại thất vọng.

 Một năm rưỡi sau, bất ngờ Carina gọi điện cho tôi, hỏi tôi có muốn đi Kuku với cô và một nhóm người Việt khác không. Tôi nhận lời ngay lập tức.

 Chuyến đi này đã được một cơ quan từ thiện tại Melbourne, Úc Châu, đứng ra tổ chức. Nhóm có 22 người, kể cả cha vợ tôi và tôi. Tất cả chúng tôi đều đã là thuyền nhân, hiện đang sống tại Hoa Kỳ, Úc Châu, Pháp, và Thụy Điển, và hầu hết đã từng sống tại Kuku. Còn những người khác thì tháp tùng đi tìm mộ người thân.

Trong mấy tháng đợi đi, lòng tôi nôn nao vô tả. Những câu hỏi cứ lập đi lập lại trong đầu: Liệu mộ Mẹ có còn ở đó không? Làm sao tìm được? Cách nào để nhận ra?… Tôi có hỏi em gái tôi, nhưng em cũng không biết chỗ vì lúc đó em còn quá nhỏ lúc người ta đem Mẹ đi chôn. Tôi lại hỏi Dì tôi, nhưng Dì cũng không nhớ được bao nhiêu, vì kinh nghiệm quá đau thương nên Dì đã cố quên đi để mà sống. Tuy nhiên, Dì có kể là Dì nhớ mộ Mẹ chôn dưới một gốc cây to đứng riêng một góc, chung quanh có nhiều lùm bụi, và ngay chỗ đó chỉ có một mình mộ Mẹ thôi. Dì nói Dì có viết tên Mẹ trên một miếng bia gỗ nhỏ.

 Sau cùng thì cũng tới ngày đi. Tôi gặp mặt Carina lần đầu tiên tại phi trường Singapore. Lúc chúng tôi ôm nhau để chào hỏi, tôi bỗng thấy thân thương như đã quen cô từ lâu. Sự nhiệt tình và tự tin nơi cô thật sự đã làm tôi đỡ cảm thấy hoang mang trong tình huống này. Cô Mimi, em gái Carina cũng có mặt trong chuyến đi. Mimi đã từng sống chung với Carina trên đảo Kuku lúc cô 12 tuổi, và đây là lần đầu tiên trở lại. Chúng tôi làm thân nhau thật dễ dàng; cả hai chị em rất thân thiện, nhiệt tình, và lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ. 

Có hai gia đình đã đích thân mai táng người thân của họ trên đảo, thành ra họ biết rõ các ngôi mộ đó hình dáng ra sao, nhưng vẫn lo là không tìm ra được vị trí. Nghe họ nói, tôi nói với Carina là cơ may tìm ra được mộ Mẹ chắc rất mong manh, nhưng dù sao, tôi cũng có dịp thăm viếng nơi Mẹ đã nằm xuống. Carina khuyến khích tôi hãy cố giữ hy vọng, và đề nghị tôi hãy cầu nguyện xin Mẹ dẫn đường cho tôi tìm ra được mộ.

 Tôi mang theo nhiều thứ, kể cả giấy tiền vàng bạc để đốt cho các hương hồn đã bỏ thây trên một hòn đảo hoang đã lâu không ai thăm viếng, cầu mong cho họ sớm được đầu thai nơi khác. 

Hôm đầu tiên, lúc bắt đầu đi, chúng tôi chia ra thành ba nhóm nhỏ, mỗi nhóm có nhiệm vụ tìm mộ giùm một gia đình. Carina và Mimi trong nhóm tôi, với chủ đích là mộ Mẹ tôi.

Carina đề nghị chúng tôi hãy đi về hướng suối, vì cô nhớ là đã có nhiều người được chôn tại khu vực đó lúc người tỵ nạn bắt đầu được đưa lên đảo. Sau nhiều tiếng đồng hồ vạch lá băng rừng trong khí hậu nóng ẩm, chúng tôi quyết định dừng lại nghỉ chân trong một khoảng rừng trống, và tình cờ trông thấy chung quanh có năm ngôi mộ, ngôi nào cũng hoang tàn, và không ngôi nào có bia.

Bỗng nhiên Carina nhìn thấy đằng xa, trong góc, có một ngôi mộ ló ra sau một gốc cây, cách xa các mộ khác. Cô tới quan sát coi mộ có tên không, nhưng chỉ thấy có một số khối đá tương đối láng xếp ngay ngắn trên mộ. Ít phút sau, khi chúng tôi đứng dậy chuẩn bị đi tiếp, Carina quyết định trở lại xem xét kỹ ngôi mộ trong góc một lần nữa. Lần này cô quan sát thật kỹ từng khối đá, và thấy có một phiến chôn nửa dưới nửa trên, hình chữ nhật thay vì tròn như những khối chung quanh. Thấy cô ì ạch một mình cố lôi phiến đá lên, cha vợ tôi vội chạy tới tiếp tay. Họ thấy phiến đá quả thật là một tấm bia, trên đó có khắc chữ Trung Hoa sơn đỏ. Carina đổ ít nước uống trong chai ra rửa sơ, rồi cha vợ tôi xướng tên, nhưng cả hai đều không nhận ra. Từ đằng xa, tôi có nghe cái tên ông xướng, nhưng không chắc là mình đã nghe đúng, nên chạy lại, xin ông đọc lại một lần nữa. Nhìn những chữ khắc trên tấm bia cũng chẳng giúp gì được cho tôi, vì tôi không biết đọc chữ Trung Hoa.

Khi ông đọc lại một lần nữa, tôi móc trong ba lô ra một mẩu giấy chị tôi gởi cho tôi, trong đó có ghi tên, ngày sanh, và ngày mất của Mẹ, viết bằng chữ Trung Hoa. Tất cả các chữ trên giấy giống y như những chữ khắc trên bia. Tôi quỳ sụp xuống, khóc ngất.

 Sau này tôi được biết thêm là tấm bia này đã được một người bà con của Mẹ mướn người khắc và dựng trên mộ Mẹ mà chúng tôi không ai biết. Người này lúc đó cũng đang tỵ nạn trên một đảo khác gần đó.

 Lúc chúng tôi khai quật mộ, tôi nhìn ra được bộ quần áo của Mẹ. Tôi mang bộ quần áo này ra biển giặt. Sau bao nhiêu năm, bao nhiêu lần Mẹ đã giặt quần áo cho tôi, nhưng lần này, tôi được giặt cho Mẹ.

 Tôi đã hoàn thành sứ mạng. Sau ba mươi năm trường, cuối cùng thì tôi cũng đã tìm được mộ Mẹ!

David Lee

--- Trích từ sách "Thuyền Nhân, nước mắt biển đông từ sau biến cố 30/4/1975" của Carina Hoàng và được sự chấp thuận của tác giả ---

Related Articles

Cụm Bèo Lục Bình

Cụm Bèo Lục Bình

Thấm thoát đã gần 21 năm lưu lạc nơi xứ người, mấy đứa con của chúng tôi bây giờ đã lớn. Tôi cũng thường kể lại chuyện cũ cho chúng nghe, luôn cả chuyện về anh chàng thanh niên trẻ đó. Và tôi cũng thường nhủ lòng rằng phải ráng lên để…

Đọc thêm
SOS!Cứu chúng tôi với!

SOS!Cứu chúng tôi với!

Hồi tưởng lại thảm kịch vượt biên của người Việt, hiểm nguy, chết chóc, cướp biển, hãm hiếp, mất hết tiền bạc, trái tim tôi dường như vẫn còn đau nhói. Nhưng mặt khác tôi có dịp giúp đỡ các cháu không thân nhân, thật là một thời gian sống có ý nghĩa.

Đọc thêm