Mấy đứa con gái, mấy đứa con gái kìa! Giấu tụi nó đi!
Tác giả: Đại Lê
Chúng tôi đã đủ lớn để giấu mình, và chúng tôi đã nhảy lên lập tức và bò vào chỗ bọn họ không thể nhìn thấy. Có hai người bọn họ, qua đôi mắt bảy tuổi của mình, tôi thấy họ cầm những thanh kiếm ánh lên vẻ tàn nhẫn khi họ nhảy lên thuyền của chúng tôi. Chẳng có gì chúng tôi có thể làm được ngoại trừ cầu trời chúng tôi không bị tổn thương hay bị hãm hiếp. Chúng tôi đã nghe nhiều câu chuyện về những tên cướp biển Thái Lan cướp bóc thuyền nhân Việt Nam, và chúng tôi đã biết về sự cướp bóc và cưỡng đoạt không nương tay của chúng.
Mẹ tôi giao nộp chiếc đồng hồ và chiếc nhẫn vàng nhỏ của bà, là tất cả những gì mẹ có trên người. Nhưng may mắn thay đó cũng là tất cả những gì bọn cướp biển đòi ở bà – và ở ba đứa con gái của bà.
Không phải ai cũng hợp tác như vậy, nhưng sự kháng cự không cứu được họ – những gì họ không sẵn lòng giao nộp đều bị lột sạch khỏi người bọn họ. Rồi một chuyện gây hoang mang xảy ra. Khi bọn cướp biển trở lại trên thuyền của chúng, chúng chộp lấy một hộp bánh quy và ném lên thuyền chúng tôi. Ở điểm này, chúng đã không biểu lộ chút thương cảm nào cho chúng tôi, và phản ứng đầu tiên của chúng tôi đối với món quà là sự sửng sốt cứng người – mặc dù vậy chúng tôi đã không ném trả lại hộp bánh!
Chúng tôi chỉ vừa thoát khỏi một trại tị nạn ở Philippines. Trốn khỏi một trong những trại đó là một hành động liều lĩnh, không có nhiều người thử làm. Hầu hết thuyền nhân đã có một thời gian quá khủng khiếp khi vượt biên từ Việt Nam nên họ không có khuynh hướng lặp lại cái trải nghiệm đó. Nhưng, sau ba năm ròng chờ đợi để coi liệu cha tôi có xuất hiện, Má đã quyết định bà không thể ngồi đây thêm phút giây nào nữa.
Cha làm việc cho Đại Sứ Quán Mỹ, chức vụ gì thì chúng tôi không được biết. Khi chúng tôi trốn thoát vào tháng Tư năm 1975, cha không có ở bên. Chúng tôi được dặn dò chạy trước đi, rồi cha tôi sẽ theo cùng sau khi ông thoát được và ông sẽ gặp chúng tôi bất cứ nơi đâu chúng tôi dừng chân. Chúng tôi dừng lại ở những trại tị nạn ở Phillippines. Nhưng chúng tôi đã chờ, rồi đợi, rồi chờ, rồi năm này nối năm kia ông chẳng đến. Tôi còn quá nhỏ để hiểu được điều này đã tác động đến mẹ tôi như thế nào. Trong chừng mực nào đó, mấy chị và tôi còn nhớ được chúng tôi đã quen với việc không có cha bên cạnh bởi vì bản chất của công việc của ông – mỗi lần cha đi xa là hàng tháng trời – nên khi ông không xuất hiện nó có vẻ như chuyện thường ngày. Nó không quá khác biệt so với mọi chuyện đã xảy ra khi ở nhà.
Cách mà tâm trí trẻ con của tôi đương đầu với cuộc hành trình mới này là coi nó như một cuộc phiêu lưu lớn. Tôi đã bị mê hoặc bởi màu xanh tuyệt diệu của nước, vẻ thanh bình của đại dương và ánh sáng ấm áp, dịu dàng của đèn dầu buổi tối. Tôi đã rút sâu vào thế giới nhỏ của riêng mình.
Nhưng mọi thứ xảy ra trong suốt cuộc hành trình đã kéo mạnh tôi khỏi cái chốn tuyệt diệu không tưởng của riêng mình. Bên cạnh những cuộc đột kích của bọn cướp biển, một cơn bão mà ập vào chúng tôi ngày nọ quá hung tợn đến nỗi nó gần như đã xé toạc con thuyền. Chuyện sau đó thậm chí còn kinh khủng hơn. Chống cự lại cơn bão đã làm cạn kiệt nguồn nhiên liệu dự phòng, và thuyền trưởng đã ra lệnh cho chúng tôi ném hết thức ăn qua mạn thuyền để làm giảm tải trọng cho động cơ. Mọi người quá hãi hùng với việc bị bỏ lại trôi giạt giữa chốn không biết đâu là đâu, nên chúng tôi đã làm điều được đề nghị. Nhưng rồi ai đó phát hiện thuyền trưởng đã giữ một phần thức ăn bí mật cho riêng mình, và hỗn loạn diễn ra – một chuỗi âm thanh ầm ĩ mà tôi cảm thấy rất sợ hãi.
Thật là nhẹ nhõm khi mọi việc được giải quyết ổn thoả, nhưng chúng tôi vẫn chưa được nghỉ ngơi. Liệu chúng tôi có tới nơi trước khi cơn đói trở thành một vấn đề thật sự? Và, dẫu thế, ngay cả với con thuyền giờ nhẹ hơn, liệu chúng tôi có đủ nhiên liệu để đến đó?
Tim chúng tôi chùng xuống khi động cơ bắt đầu kêu lạch tạch. Rồi ngừng. Sự hoảng sợ tồi tệ nhất của chúng tôi đã hiện ra, và chúng tôi bắt đầu trôi giạt theo sự thương tình của những dòng hải lưu. Để thêm vào tai họa, chúng tôi đâm sầm vào một tảng đá ngầm khổng lồ làm con thuyền hư hỏng gần như không thể sửa chữa được, dù rằng nhờ ơn trời nó vẫn còn kín nước. Mọi chuyện chẳng có vẻ gì là tốt lành, ‘tới nơi’ bấy giờ trông như đã quá khỏi tầm với của chúng tôi.
Tôi thực sự không thể nhớ rõ chúng tôi đã mắc kẹt ở đó bao lâu, nhưng cuối cùng, cho niềm an ủi lớn của chúng tôi, một chiếc thuyền của Hồng Kông trờ tới và kéo chúng tôi vào cảng nhà. Tôi còn nhớ đã tự nhắc mình hỏi xin một quả táo và một lon Coca Cola khi chúng tôi đã cập vào bờ. Đó là tất cả những gì tôi cần để hoàn tất cuộc phiêu lưu vinh quang của mình.
Khi chúng tôi gần đến Hồng Kông mặt trời hung ác đốt cháy chúng tôi, và tôi thiết tha mong mỏi cuộc hành trình mau chấm dứt nhanh chóng. Rồi cái gì đó rất kì lạ đã mở ra trước mắt tôi. Khi chúng tôi tiếp cận bến cảng, biển bắt đầu chuyển màu đen. Tôi ngắt ngang khỏi chế độ ‘phiêu lưu’ một lần nữa khi tôi nhận ra rằng màu đen tôi vừa nhìn thấy là màu của hàng ngàn chiếc thuyền tị nạn nhỏ, đang tranh nhau một vị trí thuận lợi trong lòng vịnh chật chội. Tôi lắc lắc đầu mình, không hoài nghi gì nữa, tôi biết rằng sẽ rất, rất rất lâu nữa trước khi tôi có táo và Coca cho mình.
Rốt cuộc chúng tôi cũng ‘được xử lý’. Dồn lại thành bầy như cừu, chúng tôi được phát mỗi người một con số sẽ định nghĩa chúng tôi cho đến khi chúng tôi ổn định tại một trại tị nạn ở Hồng Kông. Đây hoá ra chỉ là cái đầu tiên trong loạt ba trại nơi chúng tôi sẽ được lùa vào. Cứ từ trại này đến trại khác cho đến khi, cuối cùng, Úc chấp thuận chúng tôi.
Tôi đã không gặp cha tôi kể từ khi tôi trốn thoát khỏi Việt Nam. Chúng tôi đoán ông đã chết, không bao giờ được trùng phùng với vợ con. Đối với các chị tôi và tôi hay ít ra là đối với tôi, không có ông bên cạnh đã là bình thường. Bởi chúng tôi thấy ông quá ít, tôi lớn lên với lòng tin rằng phụ nữ có thể đạt được mọi thứ mà không cần sự dìu dắt của một bóng hình đàn ông nào cả. Mẹ tôi đã tự mình nuôi lớn ba đứa con gái, vượt qua những vùng biển chưa có trong bản đồ và ở quê người, bà đã cho tôi thấy rằng, nếu tôi làm việc chăm chỉ như bà, không có gì là không thể.
Tôi cho là thành công của tôi trong việc vượt qua những chướng ngại cuộc đời là nhờ vào thiếu vắng của cha cũng như tấm gương và sự ảnh hưởng của mẹ. Tôi tự chủ và tôi kiên quyết.
Đại Lê
--- Trích từ sách "Thuyền Nhân, nước mắt biển đông từ sau biến cố 30/4/1975" của Carina Hoàng và được sự chấp thuận của tác giả ---
Related Articles
Cụm Bèo Lục Bình
Thấm thoát đã gần 21 năm lưu lạc nơi xứ người, mấy đứa con của chúng tôi bây giờ đã lớn. Tôi cũng thường kể lại chuyện cũ cho chúng nghe, luôn cả chuyện về anh chàng thanh niên trẻ đó. Và tôi cũng thường nhủ lòng rằng phải ráng lên để…
SOS!Cứu chúng tôi với!
Hồi tưởng lại thảm kịch vượt biên của người Việt, hiểm nguy, chết chóc, cướp biển, hãm hiếp, mất hết tiền bạc, trái tim tôi dường như vẫn còn đau nhói. Nhưng mặt khác tôi có dịp giúp đỡ các cháu không thân nhân, thật là một thời gian sống có ý nghĩa.
Hồi Ký Hải Hành Tìm Tự Do
Bốn bề là nước trong xanh, nắng chiếu gay gắt nên chúng tôi mệt lả vì thiếu nước. Đêm đến đen kịt một mầu, không thấy chi hết, chỉ nằm im, không dám đi đâu vì sợ lọt xuống biển.