Luật Sư Việt Nam Tốt Nghiệp Đầu Tiên tại Nam Úc
Nguyễn Đức Trí
Trí sinh ra trong một gia đình có bốn anh em trai và hai chị gái ở miền Nam Việt Nam. Năm 1980, anh rời Việt Nam cùng anh trai lớn là Tâm khi anh vừa mới tám tuổi. Máy bị hỏng nên ghe họ vượt biên đã trôi vô định hướng 17 ngày liên tiếp. Họ đã bị bọn hải tặc tấn công dữ dội bảy lần và tước hết mọi tài sản có giá trị. Trước khi bỏ đi, những tên cướp biển cuối cùng đã cố tình phá thủng chiếc thuyền, nhưng may thay con thuyền từ từ trôi dạt vào một bãi biển ở Malaysia nơi họ được giải cứu và chuyển đến hòn đảo nhỏ Pulau Bidong. Trong mắt của cậu bé Trí, đó là một cuộc phiêu lưu ngoạn mục.
Đối với cha mẹ anh, gửi hai con trai của họ trên một hành trình như vậy là một quyết định rất đau khổ. Họ có những thành viên trong gia đình đã chết trên những hành trình vượt biễn nguy hiểm như vậy. Tuy nhiên, đối mặt với viễn cảnh các con trai của họ sắp đến tuổi bị ép phải đi lính tham chiến, và có thể bị chết ở biên giới Campuchia, đó là một lựa chọn nghiệt ngã giữa hai con đường không thể tưởng tượng được.
Tôi nhớ, một vài tháng trước đó, cha chúng tôi bắt đầu đưa chúng tôi ra sông trước nhà để bơi mỗi ngày. Rồi một ngày nọ, cha mẹ chúng tôi đã sắp xếp một bữa ăn trưa thịnh soạn cho gia đình cùng với một số cô dì chú bác của chúng tôi. Đến xế chiều, họ đưa chúng tôi ra góc nhà và nói, chúng tôi sẽ đi vượt biên cùng với dượng dì Sáu. Ngay lúc đó anh em tôi cùng dì dượng đã vội vã rời đi với họ, trong khi những người khách còn đang ăn uổng vui vẻ. Đó là một buổi chiều nắng ấm và chúng tôi đón xe buýt ở bên đường. Ngay khi chúng tôi xuống xe, dì dượng đã vội vã đẩy chúng tôi núp đằng sau những rặng tre rậm rạp. Sự việc diễn ra thật kỳ quặc. Tôi rất sợ, nhưng đồng thời cũng tràn ngập sự hiểu kỳ. Chúng tôi trốn ở đó thật lâu và trong bóng tối của màn đêm, phải chạy xen giữa những bụi cây; đễ trốn; rồi lại chạy và bò một quãng dài qua đầm lầy, dáo dác nhìn quanh mọi phía và thấy những tia sáng màu cam và đỏ ở phía chân trời cùng với những tiếng nổ điếc tai như sấm sét. Nhiều năm sau đó, tôi mới biết đó là những tiếng súng bắn về phía chúng tôi. Chúng tôi đã tranh nhau leo lên trên những chiếc ghe đánh cá nhỏ cùng nhiều người lạ và tôi nhìn thấy sự sợ hãi trong mắt họ. Những chiếc ghe này đã đưa chúng tôi đến một chiếc thuyền đánh cá lớn hơn một chút, ở đó chúng tôi ngồi chen lấn như cá mòi và bắt đầu một cuộc hành trình dài và đầy hiểm nguy trên biển. Ký ức đầu tiên của tôi về hành trình trên biển là nhìn lên boong tàu vào buổi sáng, nhìn thấy những cơn sóng giống như những ngọn núi đen xoay lòng vòng và tôi bị say sóng nghiêm trọng.
Trí và anh trai đã ở trong trại do Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) quản lý trên hòn đảo nhỏ của Malaysia, Pulau Bidong trong 3 năm, học tiếng Anh cơ bản trước khi họ được chấp nhận tái định cư ở Nam Úc.
Cuộc sống trên Pulau Bidong thật khắc nghiệt và buồn. Chúng tôi ở trong những túp lều dựng tạm bằng gỗ và phủ bằng những tấm nhựa dày, chủ yếu là màu xanh và trắng. Trại quá đông người với ít hoặc không có hạ tầng cơ sở, và bị chuột quấy phá. Để tạo động lực diệt bớt chuột, cứ bắt được 20 con chuột sẽ được thưởng cho một lon sữa đặc. Đây là phần thưởng có giá trị cao đối với chúng tôi và nó là động lực để chúng tôi đi lùng bắt chuột.
Tôi và anh trai thường dành cả ngày để rong ruổi khắp các khu vực được đi lại trên đảo và được chứng kiến những chiếc thuyền cập bến không ngừng nghỉ chứa đầy những con người đói khát, tuyệt vọng, nhưng an tâm vì đã đến được bến bờ. Mỗi chiếc thuyền đến đảo được cấp một mã số tàu để nhận diện người trên ghe trong thời gian sống trên đảo. Số thuyền của chúng tôi là PB-040.
Có một số người sống tại đảo, hết năm này qua năm khác mà vẫn không có cơ hội được định cư, liền tìm cách trốn khỏi đảo bằng những chiếc bè sơ sài và liều mình trên một hành trình nguy hiểm khác bằng đường biển. Hầu hết, nếu không bị chết đuối, thì cũng bị Thủy Cảnh Mã-Lai bắt và đưa trở lại đảo. Một số người khác vì quá tuyệt vọng đã tự kết liễu đời mình trong trại và những người lớn thì thầm loan tin buồn để chúng tôi hiểu rằng một sự kiện bi thảm đã xảy ra. Tất cả chúng tôi đều hy vọng rằng một ngày nào đó chúng tôi sẽ được chấp nhận tái định cư ở một quốc gia khác. Ai ai cũng sợ bị gửi trở lại Việt Nam hoặc bị khước từ không bao giờ được chấp nhận để tái định cư.
Sau gần 3 năm, chúng tôi đã được chấp nhận tái định cư ở Úc. Chúng tôi đả đi phà vào đất liền để ra sân bay Mã lai đi định cư. Không ai trong chúng tôi biết gì về quê hương mới của mình, hồi ức duy nhất của tôi là được xem một bộ phim chiếu về một vùng đất tuyết kỳ diệu, những cỗ máy tuyệt vời thu hoạch cỏ khô và những đàn gia súc trù bò và cừu thật lớn; nhưng những người đã tái định cư thành công đã gửi thư trở lại hòn đảo, với lời khuyên an ủi, hãy tìm hình ảnh một con kangaroo màu đỏ đang bay và một khi bạn nhìn thấy nó, thì bạn biết rằng bạn được an toàn. Tôi nhớ rất rõ khi đến một nơi rất kỳ lạ và ồn ào và nhìn thấy đủ loại máy bay, tôi liền dõi mắt tìm kiếm hình ảnh con kangaroo đang bay màu đỏ như đã từng được xem trong những bộ phim chiếu trên đảo. Mắt tôi cuối cùng nhìn thấy biểu tượng kangaroo mầu đỏ ở đuôi của một trong những chiếc máy bay, tôi lập tức chỉ ra nó một cách hào hứng và cảm thấy một cảm giác nhẹ nhõm vô cùng. Vậy là cuối cùng tôi đã an toàn..
Mọi thứ không phải dễ dàng trên mảnh đất mới, nhưng với sự hỗ trợ của Chính phủ và người dân Úc, cuộc sống của họ dần dần ổn định
Trí học tại Trường tiểu học Hindmarsh và được vinh dự là học sinh đứng đầu của trường trong năm cuối cùng. Sau khi tốt nghiệp trung học tại trường trung học Woodville, anh tiếp tục học Khoa học tại Đại học Adelaide. Vào cuối năm đầu tiên Trí đã là sinh viên trong top 10%.
Là một cậu bé có tham vọng và đạt điểm cao trong năm đầu tiên lấy bằng Khoa học, Trí quyết định học ngành Luật. Năm 1994, Trí đã hoàn thành văn bằng Cử nhân Khoa học (Khoa học pháp lý) và bắt đầu chương trình nghiên cứu sau đại học. Anh nhớ lại lịch trình bận rộn của việc theo học tại Trường Luật Adelaide vào ban ngày, sau đó chạy đến Bệnh viện Queen Elizabeth vào buổi tối để thực hiện nghiên cứu danh dự về việc phát hiện sớm Ung thư Đại tràng thông qua nghiên cứu Apoptosis ở bệnh nhân. Tuy nhiên, khi phải đối mặt với lịch trình dày đặc, anh đã đưa ra lựa chọn khó khăn là ngừng học chương trình sau đại học và tập trung vào học Luật và tiếp tục hoàn thành bằng Cử nhân Luật, tốt nghiệp năm 1996 và trở thành luật sư tốt nghiệp Việt Nam đầu tiên ở Nam Úc.
Vào ngày 2 tháng 9 năm 1996, Trí đã hoàn thành các yêu cầu của Chương trình đào tạo pháp lý thực tế tại Đại học Nam Úc, nơi anh gặp vợ mình, Sarah. Anh đã vinh dự được Ông thẩm phán Tòa án Quận, Sydney Tilmouth QC (nay đã về hưu) nhận vào Tòa Thượng Thẩm Nam Úc. Anh được chấp nhận vào Sổ đăng ký các luật sư của Tòa án tối cao Úc. Anh hiện là Luật sư cố vấn tối cao (General Counsel) và Tổng bí thư công ty (Company Secretary) của Redundancy Payment Central Fund Ltd, giám đốc của Clean Swell Dreaming Pty Ltd và là Đồng thành viên của Viện thư ký và quản trị viên (The Chartered Governance Institute).
Suy nghĩ về sự nghiệp công ty và pháp lý của mình, anh cảm thấy vinh dự khi có thể cung cấp và đại diện cho nhiều thân chủ Việt Nam trong suốt thời gian hành nghề tư nhân. Anh được khuyến khích bởi sự nhận thức ngày càng tăng về hệ thống pháp luật và sự bảo vệ và lợi ích mà nó mang lại. Anh cũng nhìn thấy những lợi ích to lớn cho luật sư và khách hàng mà họ đại diện khi họ có thể nói được ngôn ngữ của thân chủ mình như đã được phản ánh bởi nhiều luật sư và trạng sư gốc Việt.
Đến từ Việt Nam bằng thuyền như một phần của Chương trình Người tị nạn UNHCR vào đầu những năm 1980, được trao cơ hội thứ hai trong cuộc sống và có thể đạt được ước mơ thực hiện trí tuệ và an ninh tài chính; Anh cảm thấy mạnh mẽ rằng Úc là vùng đất có nhiều cơ hội có thể đạt được dễ dàng bằng sự cống hiến và làm việc chăm chỉ. Đây là những phẩm chất mà cha mẹ anh đã truyền lại trong anh. Anh nhớ lại một cuộc trò chuyện đơn giản nhưng sâu sắc mà cha mẹ anh đã có với anh ngay trước khi bắt đầu học trung học: Ba Mẹ đã hy sinh và mạo hiểm nhiều để tìm một ngôi nhà mới, nơi mà con và các anh chị em của con có thể có tương lai. Con sắp bắt đầu một hành trình rất quan trọng đòi hỏi con phải nỗ lực để đạt được tương lai.
Anh tin chắc rằng người di cư là những người đóng góp đáng kể cho xã hội.
Tôi biết ơn nước Úc và cộng đồng Việt Nam – cả hai đã cung cấp cho tôi sự hỗ trợ và cơ hội mạnh mẽ để đạt được ước mơ của mình, đồng thời tôi cũng được hưởng lợi rất nhiều từ một môi trường khuyến khích sự đa dạng trong văn hóa và quan trọng nhất là phải gìn giữ nó. Những cơ hội được trao cho tôi đã cho giúp tôi được phát tríển và riền luyện các kỹ năng qúy giá. Nhờ đó tôi có thễ đóng góp và giúp đỡ người khác.
Lòng biết ơn của Trí đã được thể hiện thông qua công việc và đóng góp cho cộng đồng trong những năm qua. Anh là thành viên Hội đồng sáng lập của Quỹ từ thiện người Úc gốc Việt (SA) và giám đốc không điều hành của Tổ chức giáo dục người Thổ Dân. Anh cũng là một cố vấn cho Hiệp hội Luật sư Doanh nghiệp Úc, nhằm cố vấn cho các luật sư trẻ trong nội bộ.
Tríết lý sống của Trí, là đừng bao giờ quên cội nguồn của bạn vì nó là nguồn sức mạnh giúp bạn vượt qua mọi thử thách; phải học hỏi từ những sai lầm mà bạn vấp phải; luôn nỗ lực để đạt được nhiều hơn những gì bạn tin rằng bạn có khả năng vì trong chúng ta luôn có một nguồn năng lực tiềm ẩn chưa được khai thác; và làm những gì bạn có thể để đóng góp trở lại cho những người khác có thể có một con đường suôn sẻ hơn.
Tôi chưa bao giờ mơ ước có thể học Cử Nhân Luật vì hồi đó mặc dù tôi đã thành thạo tiếng Anh, nhưng đó vẫn là ngôn ngữ thứ hai của tôi. Ý tưởng học luật là vô cùng nan giải. Những năm tháng ở trường Luật của tôi đầy ắp sự dè dặt và tự nghi ngờ. Cuộc sống đại học là một thế giới xa lạ và cuộc sống của Trường Luật với lịch sử văn hóa phong phú và sự sung túc của nó, quá xa lạ với kinh nghiệm sống của tôi, có một sự huyền bí và phức tạp khiến nó trở nên đáng sợ đối với một cậu bé sắc tộc nhút nhát sống ở ngoại ô phía Tây. Tuy nhiên, nhận thức được sự hy sinh của gia đình dành cho để có được vị trí của mình, tôi đã quyết tâm thành công.
Trí cảm thấy may mắn khi luôn được bao quanh bởi những giáo viên tận tụy nhiệt tình trong suốt những năm học, một số người mà anh vẫn duy trì liên lạc đến ngày hôm nay và là một phần của vòng tròn gia đình và bạn bè và các chuyên gia và đồng nghiệp đáng kính trong suốt sự nghiệp của anh, một số người cũng trở thành những người thân cận và cố vấn. Anh cho rằng động lực và thành công của mình là nhờ người vợ luật sư tuyệt vời Sarah, và hai đứa con đáng yêu và được nhiều người yêu mến là Sophie và Simon.
Nguyễn Đức Trí
Related Articles
Xin Cho Một Đời Tạ Ơn
Khi còn là một nữ tu trẻ trong dòng Mến Thánh giá, sơ Elizabeth Nghĩa đã đến Úc năm 1976 như một trong những “thuyền nhân”, đã bị buộc phải chạy trốn khỏi quê hương sau chiến tranh Việt Nam. Câu chuyện thực sự về người phụ nữ đáng chú ý này bắt đầu trước khi sơ đến đất nước này…
Thuyền Nhân
Từ sau ngày 30/4/1975, từ điển ngôn ngữ thế giới có thêm một thuật ngữ mới: Boat People (Thuyền Nhân), một định nghĩa ám chỉ những người tị nạn Việt Nam chạy trốn khỏi quê hương bằng thuyền.
Một Dấu Mốc Lịch Sử
Năm 1975, chúng ta đã thấy được những bước khởi đầu trong việc định cư những người Việt tỵ nạn và suốt ba mươi năm qua kể từ đó bộ mặt của Úc đã có thay đổi. Sự xuất hiện của những người Việt tỵ nạn đã…
Từ Nghị viên Trở Nên Thượng Nghị Sĩ Quốc hội Tiểu Bang
Nghị sĩ Tùng trở thành người Úc gốc Việt đầu tiên được bầu vào Quốc hội Nam Úc. Vào thời điểm đó anh là nghị viên duy nhất có nguồn gốc Việt Nam trong Quốc Hội tại Úc, việc này chưa từng có trong bất kỳ Quốc hội nào…