Lòng Từ Bi Cũng Rã Rời

26/09/2020 | Trại Tỵ Nạn

Tác giả: Talbot Bashall
Dịch giả: Trinh Nguyễn

Lúc chín giờ mười lăm phút sáng ngày thứ tư 18 tháng 4 năm 1979, tôi được triệu tập đến văn phòng Bộ Trưởng An Ninh (Government’s Secretary of Security) của Chính Phủ Hồng Kông để đưa ra một bản báo cáo vắn tắt về tình hình người tỵ nạn Việt Nam. Thực chất vấn đề là, mọi người hoảng sợ vì con số ngày càng tăng của người tỵ nạn đến từ Việt Nam đã diễn ra đến nơi rồi. Sau đó lý do tôi được triệu tập đã rõ: tôi được bổ nhiệm làm quản trị viên (Controller) cho Trung Tâm Quản trị Người Tỵ Nạn (Refugee Control Centre – RCC) vừa thành lập. Nhiệm vụ phối hợp mọi nỗ lực của Chính Phủ Hồng Kông trong việc giải quyết những con số dự đoán và xây dựng những mối quan hệ hợp lý với tất cả các lãnh sự quán được công nhận, đặc biệt là của Hoa Kỳ, Hà Lan và Tây Đức. Thêm vào đó, tôi đã liên lạc chặt chẽ với Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (United Nations High Commission for Refugees – UNHCR) và những tổ chức có liên quan, thiện nguyện. Nói cách khác, để đảm bảo có thể công việc càng suôn sẻ càng tốt về vấn đề người tỵ nạn và công văn giấy tờ sau đó đến những quốc gia họ được tái định cư.

Mang trên vai gánh nặng của cơn khủng hoảng ngày càng nghiêm trọng này chính là ngành Cảnh Sát và Dịch Vụ Xuất Nhập Cảnh (Immigration Service). Hai tổ chức này đã làm việc “vượt qua cả nhiệm vụ” rất nhiều. Chủ nghĩa anh hùng, tính bền bỉ và sự cam kết cao độ không gì sánh kịp trong công việc làm họ xứng đáng nhận được lời khen tặng cao nhất. Tôi hy vọng sự tri ơn này, vì những cống hiến và việc họ đã làm, có thể bằng cách nào đó bù đắp được sự thật rằng lời ngợi khen mà họ xứng đáng được nhận lại chẳng bao giờ được trao tặng.

Khi đó tôi nhớ lại rằng, năm 1947 tôi hai mươi tuổi, trong suốt thời gian đương đầu với tội phạm chiến tranh ở Venice, tôi đã ý thức tôi đang sống trong lịch sử, và trong nhiệm vụ mới này, tôi có cùng thứ cảm nhận đó. Tôi cũng còn nhớ lời tướng Dwight D. Eisenhower, Chỉ Huy của Lực Lượng Đồng Minh ở Châu Âu (Commander of all Allied Forces in Europe) vào cuối Thế Chiến thứ II (rồi sau đó trở thành tổng thống Hoa Kỳ). Khi nhìn thấy các trại tập trung của Đức Quốc Xã ông đã nói: ‘Ghi lại càng nhiều hình ảnh càng tốt, bởi vì một lúc nào đó trong tương lai, sẽ có vài tên “SOB” (Chó đẻ) nói rằng “Chuyện đó chưa từng xảy ra”’. Vậy nên tôi chụp lại rất nhiều hình ảnh, khuyến khích những người khác cũng làm như vậy, và với sự hợp tác đáng kinh ngạc của Cynthia vợ tôi, đã thu thập các hình ảnh cá nhân và chính thức, cả những bài báo và tài liệu có liên quan khác. Tôi có thể dự đoán được sự huỷ diệt theo chiều hướng cộng sản kia sẽ giảm đi sau vài năm và những kẻ kế vị thủ phạm sẽ tuyên bố chuyện như thể ‘chưa bao giờ xảy ra’.

Một phần vì trách nhiệm, mỗi ngày của tôi bắt đầu lúc sáu giờ sáng và có thể kéo dài đến tận tối mịt, phụ thuộc vào việc thuyền cập bến và các vụ khủng hoảng phát triển đến mức nào. Công việc này không hề giống với những điều tôi đã trải qua. Không có một ‘nguyên tắc hành xử đặc biệt’ nào được dùng để giải quyết những sự kiện này một khi chúng diễn ra.

Tôi luôn luôn phải trực ngoài giờ, theo cách nói hiện đại là làm việc 24/7. Quả thật, tôi vừa nhận công tác chưa đầy năm phút mà đã có biết bao nhiêu chuyện chuyện xảy ra. Tôi đã được cấp một cái ‘máy nhận tin’, thiết bị trước thời điện thoại di động, một vật thể đen sì có thể phát ra tiếng ‘bíp’ và chuyển đến thông điệp từ mọi điểm của la bàn cho biết những chuyện như thuyền đến nơi, vô số những cơn khủng hoảng liên quan đến các trại, các vấn đề hành chính và những vấn đề khác. Văn phòng của tôi ban đầu nằm ở trại Victoria Barracks – bây giờ đã bị phá bỏ và thay thế bằng những văn phòng và khách sạn cao tầng – Và tôi được ra lệnh hãy bắt tay vào việc.

Hợp tác với nhiều tổ chức khác nhau cùng lúc cũng không phải là chuyện khó khăn, như thể có một cảm giác lỳ lạ về tình bạn thân thiết tràn ngập cả khung cảnh. Tất cả mọi người cam kết cùng nhau làm dịu đi cái tai ương khủng khiếp này. Mỗi khi có một chiếc thuyền đến, máy nhận tin của tôi sẽ phát ra âm thanh để báo động và tôi sẽ đăng nhập các tin tức và cho chúng ‘lên đường’. Thuyền sẽ được chặn lại và hộ tống đến Bãi Đậu Kiểm Dịch Phía Tây (Western Quarantine Anchorage – WQA). Ở đây họ được kiểm tra sức khỏe và các vấn đề an ninh. Trong lúc ở WQA, những phận người trôi nổi nghèo đói, khốn khổ, hoang mang và hoàn toàn bị thương tổn kia được hỗ trợ dịch vụ y tế cơ bản, được cung cấp thức ăn và nước uống. Bảy ngày sau, họ được kéo đi và được lên bờ ở Bến Cảng Chính Phủ (Government Dockyard). Nơi này có cái ‘cầu cảng’ (landing jetty) với lối đi xuống bị sạt lở rất nghiêm trọng phía sau. Cây cầu cảng cũ kỹ đã đến lúc phải phá đi này, tự thêm vào bề dày lịch sử của nó, khi kiên cường một cách đáng ngưỡng mộ chịu đựng tấn bi kịch đang diễn ra. Để dễ hình dung về sự lớn lao của tấn bi kịch, tôi ghi nhận được vào ngày 12 tháng Bảy năm 1979, nơi này đang có tổng cộng 12.179 người gồm cả đàn ông, phụ nữ và trẻ em.

Trong nhật ký hàng ngày và những ghi chép của tôi, toà nhà này còn xa lắm mới đạt đến mức lý tưởng. Mái nhà bị rò rỉ và các điều kiện nói chung rất sơ khai, nhưng nó lại là nguồn cứu viện tuyệt vời và là sự mãn nguyện của những người tỵ nạn Việt Nam đến ở đây. Đặt chân lên “đất liền”, được tắm, được thay quần áo và nhận được sự hỗ trợ từ các cơ quan thiện nguyện. Tôi không nghi ngờ gì chuyện những người nghèo khó này có thể nghĩ họ đã lên đến tầng thứ bảy của thiên đường. Thêm vào đó là tâm trạng khuây khoả biết rằng họ sẽ không bị đẩy ra biển trở lại. Vị bộ trưởng An Ninh sau đó tuyên bố ‘Tôi cho rằng việc đẩy ngược một chiếc thuyền đầy ắp người ra biển và buộc họ phải tự tìm một cơ hội cập bến nơi nào khác là hành động không đúng đắn và hủy hoại uy tín của Hồng Kông’.

Tôi tin điều đó là uy tín vĩnh viễn của Hồng Kông khi chính sách này được thông qua, và tôi biết rằng những người ở “tiền tuyến” không có cách làm nào khác hơn. Có thể nói rằng, lượng thuyền đến nơi ngày càng tăng mang đến sự căng thẳng khủng khiếp cho những người làm công việc tìm kiếm và thu xếp chỗ ở vì những nơi hiện có đều đã tới trạng thái bão hoà.

Đây gần như là nghịch lý, nhưng tôi cảm thấy tổng hợp của sự căng thẳng mà chúng tôi đang chịu đựng và sự hợp tác tuyệt vời giữa các tổ chức liên quan là một cách dẫn đến sự suy sụp tinh thần. Có lẽ ví dụ này sẽ mang đến gợi ý để hiểu những gì tôi đang kể: khi tôi liên lạc người phụ nữ trẻ bên bộ Di Trú ‘Lại thêm một khủng hoảng nữa tự nó xuất hiện’, cô trả lời với tôi ‘Đợi nhé, trong khi tôi lên cơn kích động đây’.

Chuyện thiết yếu là mọi người không được để ‘cảm xúc chi phối’: nhưng giá mà chúng tôi làm được như vậy, thì sự suy sụp tinh thần đã không xảy ra. Ngược lại, tất cả chúng tôi đều rơi vào trạng thái ‘xót xa rã rời’, tôi tin vậy. Nhưng sự đau khổ của chúng tôi có là gì đâu so với nỗi đau của những người tỵ nạn. Tôi tha thiết hy vọng rằng kẻ tàn sát vô tâm không bao giờ có dịp tìm đến ai ở bất kỳ đâu lần nữa.

Trong số các trường hợp đặc biệt kinh khủng mà nhật ký tôi ghi lại, có một sự việc nổi bật hẳn. Trên một chiếc thuyền cập bến với chỉ một ít người tỵ nạn, tôi nhìn thấy một thiếu niên mười lăm tuổi bị cột vào cột buồm. Khi được thẩm vấn, cậu bé kể là em sắp đến lượt bị người ta ăn thịt, nhưng đã may mắn thoát khỏi số mệnh. Sau đó tôi biết được em bị cột vào cột buồm vì bọn họ sợ em sẽ nhảy xuống biển thì mất đi nguồn cung cấp thực phẩm.

Đào Văn Cừ (tên của cậu bé) nói rằng vài ngày trước, những người khác có một cuộc thảo luận với nhau và sau đó vây xung quanh em. Họ kéo áo che qua đầu và dùng dây thừng cột chân em lại. Trong khi hai người đàn ông đè em xuống boong tàu, cháu của người thuyền trưởng dùng một cây sắt đánh vào phần đầu em cho đến khi em chảy máu lênh láng. Trong lúc nằm tiếp tục chảy máu, em nghe được một người bảo một người thứ ba cắt cổ họng em. Em đã khóc và cầu xin lòng thương xót. ‘Họ muốn ăn thịt tôi’, em kể ‘và đã nấu sẵn một nồi nước sôi lớn. Tôi chờ họ cắt cổ mình’.

Không ai bước tới trước để giết em và em cứ nằm đó ở mũi tàu. Chiều muộn ngày đó, người bạn đồng hành ốm yếu trẻ tuổi của em chết đi và bị bọn họ ăn thịt, em kể, chuyện này giúp em trì hoãn cái chết. Nhưng hai ngày sau đó, mối đe doạ đã trở lại. Em thoát chết, em nói, chỉ vì tàu của họ đã đến được lãnh thổ Hồng Kông.

 

Bài viết về câu chuyện này sau đó xuất hiện trên tờ New York Times ngày 13 tháng 8 năm 1981, tác giả là Henry Kamm, Thông Tín Viên Ngoại Giao châu Á của báo.

Một cơn khủng hoảng khác chúng tôi phải đối mặt là sự di tản nhanh chóng của các tàu tỵ nạn từ WQA như một dấu hiệu của bão đến được phát ra. Vào những lúc này, ai lại không nghĩ đến rất nhiều người khốn khổ, trên những chiếc thuyền mỏng manh lại quá tải của họ, có thể đang bỏ mạng trong hoàn cảnh khủng khiếp không tưởng tượng nổi. Tờ The Economist nhắc đến ‘sự việc lên đến nửa triệu xác chết trong Biển Đông’ có thể thổi phồng một cách chắn chắn điều tôi đang cố gắng truyền đạt.

Câu chuyện của tôi sẽ không thể đáng tin được nếu không kể đến hai trong số những chiếc tàu mà chúng tôi phải xử lý. Một là chiếc tàu vận tải hàng hoá đi biển Panamanian được đăng ký tên Skyluck, là chủ đề của một câu chuyện khác được viết bởi Jon Davison trong cùng cuốn sách này. Chiếc tàu còn lại là một chiếc tàu cũ kỹ khủng khiếp tên Hạ Long, cập bờ ngày 15 tháng 4 năm 1979. Chiếc tàu dài 35 mét, dành cho ba mươi người, nhưng nhét tổng cộng 573 người trên tàu. Nói rằng họ bị ‘đóng hộp như cá mòi’ mới có thể vừa vặn diễn tả được công bằng tình huống của họ. Họ đã bị xếp lớp – đàn ông, phụ nữ và trẻ em kẹt cứng và không thể nhúc nhích. Chỉ có thể tự hỏi bằng cách nào những người trên tàu đã có thể sống sót sau cuộc hành trình dài.

Nhật ký của tôi ghi lại rằng tôi thật sự đã bước lên chiếc tàu Hạ Long ngày 19 tháng 4 đó, tuy vậy, chuyện tôi đã xoay xở thế nào để tìm ra một nơi cho chân tôi đặt lên, đúng là nên được ghi thành một mục trong Sách Kỷ Lục Guinness. Vì điều kiện quá kinh khủng trên chiếc tàu nên những người tỵ nạn được ‘kiểm nhanh’ và cho lên bờ hai ngày sau đó. Nhìn lại vụ việc, phản ứng đầu tiên của tôi là cảm thấy thật nhẫn tâm đã để những tâm hồn nghèo khốn khó kia trên chiếc tàu đến tận sáu ngày. Nhưng mà, như tôi đã nói đó, đây chỉ là một trường hợp khủng khiếp thôi, không tồi tệ hơn những trường hợp khác đâu.

Tôi muốn chia sẻ với bạn hai tình tiết mà với tôi, nó thật sự diễn tả được cái ý tưởng chuyện xót xa đến rã rời. Những tình huống như thế này xảy ra hằng ngày.

Câu chuyện thứ nhất

Giang Vinh là một trong 2651 người chạy trốn trên chiếc tàu Skyluck, một linh hồn già cỗi mà sự yếu đuối đi ngược lại quyết tâm vĩ đại của bà. Bà nhanh chóng bị kiệt quệ sau khi thuyền đến Hồng Kông vào tháng 2 năm 1979, và cuối cùng chết đi trong vòng tay tha thiết của gia đình cũng đang kiệt sức vì đau buồn. 

Làn sóng thuyền nhân bất ngờ đổ vào như thế đã gây nên một cuộc hoảng loạn càn quét qua Trung Tâm Quản Lý Người Tỵ Nạn. Chúng tôi cần thời gian và nguồn lực để cung cấp chỗ ở thích hợp cũng như hỗ trợ về lương thực và y tế cho hàng ngàn người như vậy. Chúng tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài cách giữ họ lại trên chiếc thuyền Skyluck suốt năm tháng sau đó, trong khi chờ đợi các cơ sở tiện nghi kia được thiết lập. 

Và như thế, bà Vinh đã chờ đợi một cách kiên nhẫn trên chiếc tàu đã mang bà chay trốn, bà trút hơi thở cuối cùng – với đôi mắt mở trừng trừng. Cái chết, đó là lối thoát thứ hai: linh hồn bà bây giờ rời bỏ cơ thể bà đang nằm kia; không lâu trước đó, bà đã cảm thấy một sự thôi thúc phải rời khỏi xứ sở của mình. Cái chết của bà để lại trong tôi một sự đau lòng thảm thiết. 

Chúng tôi cẩn thận nâng cái thể xác đói khổ và mong manh của bà từ trên thuyền đi đến nhà xác để yên nghỉ. Phút giây ấy tôi biết rằng mình chẳng thể nào nói không với lời thỉnh cầu của gia đình bà Vinh: họ xin phép được đến thăm nhà xác để có thể vuốt mắt cho mẹ, để bà được nhắm mắt ra đi. 

Để mẹ được chết nhắm mắt! Điều này làm tôi xúc động mãnh liệt. Bản năng tự nhiên mách bảo tôi rằng đề nghị này rất chính đáng theo một cách nào đó vì vậy họ không nên bị từ chối cái cơ hội để thực hiện nó. Mặc dù bị áp lực đè nặng chuyện người tỵ nạn và phải đối mặt với cơn ác mộng của công việc hậu cần, tôi vẫn dành thời gian để đưa gia đình bà Vinh đi làm cái công việc vuốt mắt cho bà lần cuối. 

Bây giờ, vào ban đêm họ đã có thể dễ ngủ hơn. Dễ ngủ hơn chứ không phải là ngủ ngon. Tôi biết, cho đến lúc họ có thể nhìn thấy những tình huống kinh khiếp mà họ trải qua, những cơn ác mộng quấy rầy và họ giật mình thức giấc vì những giọt nước mắt của chính mình. 

Trong lúc gia đình bà Vinh đi ngược lại chiếc tàu Skyluck, cái cảm giác anh hùng hay chiến công về những chuyện mình đã làm, một chút xíu tôi cũng không có. Tôi chỉ là muốn trao cho những con người bất hạnh kia một mảnh vụn rất nhỏ của tự do khi họ phải đối diện với một thảm kịch khủng khiếp của nhân loại. 

Bà Vinh bảy mươi chín tuổi và là một người được kính trọng nhất trong gia đình. 

Câu chuyện thứ hai

Cô gái loạng choạng bước xuống thuyền và chậm chạp đi về phía tôi. Ba đứa trẻ nhỏ đang khóc thảm thiết và bám chặt vào thân thể gần như đã chết của cô. Quần áo của họ đã rách nát, treo phất phơ trên cơ thể yếu ớt của họ. 

Là Quản Lý của Trung Tâm Quản Lý Người Tỵ Nạn tại Hồng Kông, tôi nhìn thấy hàng ngàn con người như vậy mỗi ngày. Tuy vậy, tôi có cảm giác hài lòng, theo những gì tôi biết, chúng tôi chưa bao giờ quay lưng lại với bất kỳ người tỵ nạn nào. Chúng tôi chưa từng kéo chiếc tàu nào ngược ra biển lớn rồi để mặc họ tự lo sống chết.

Nhưng tôi lại không thể rời mắt khỏi cô ấy. Tôi dùng mắt lần theo biểu hiện đau lòng trên khuôn mặt cô và rồi, khi nhìn xuống, thấy được lý do thật sự của sự tuyệt vọng kia. Một đứa trẻ sơ sinh chết trong vòng tay, ủ rũ và không có chút sự sống, như thể nó bị chết chìm trong nước mắt của mẹ nó. Sự tuyệt vọng trong mắt người phụ nữ đó còn theo tôi mãi mãi. Không phải là đặc biệt kỳ lạ gì, trường hợp của cô chính là hình ảnh thu nhỏ của những cảnh đời khốn khổ của hàng ngàn người tỵ nạn đã đi qua đời tôi mỗi ngày trong quá khứ. 

Tôi và các đồng nghiệp mang trên vai một gánh nặng phải nhìn thấy những nỗi kinh hoàng, nhưng chúng tôi không cho phép mình được xúc động bởi những trường hợp cá nhân. Mặc dù vậy, cho đến cuối cùng, lòng trắc ẩn đã chiến thắng.

Talbot Bashall

--- Trích từ sách "Thuyền Nhân, nước mắt biển đông từ sau biến cố 30/4/1975" của Carina Hoàng và được sự chấp thuận của tác giả ---

Related Articles

Vượt Biển Đến Úc

Vượt Biển Đến Úc

Có nhiều cuộc vượt biên bằng ghe thuyền được viết và phổ biến trong suốt thời gian dài trên bốn mươi năm mà phần lớn trong những trường hợp đầy thương tâm và chết chóc trên biển cả. Trường hợp của nhóm chúng tôi gồm một tàu hoa tiêu (pilot boat) …

Đọc thêm
Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma

Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma

Trong suốt sáu tháng tôi sống nhờ vào một chén cơm với muối mỗi ngày. Tôi là một tù nhân, bị giam bởi vì một vài công an đã kết luận tôi là một điệp viên CIA khi họ tìm thấy tấm ảnh của tôi với một người Mỹ…

Đọc thêm
Mẹ Tôi

Mẹ Tôi

Sau ngày Sài Gòn thất thủ, gia đình tôi đã trải qua một cuộc đổi đời biển dâu dưới chế độ Cộng Sản. Mong cho các con có được một đời sống tốt đẹp hơn, Ba Mẹ tôi đã quyết định cho các con đi vượt biên, chia làm nhiều đợt. Lý do đơn giản là lỡ có xui xẻo gì xảy ra dọc đường hay trên biển, thì dẫu có là một mất mát đớn đau cho cả nhà, nhưng không đến nỗi phải mất hết…

Đọc thêm
Sống Để Kể Lại

Sống Để Kể Lại

Kể từ khi vượt biên khỏi Việt Nam, hai mươi lăm năm trước, tâm trí tôi vẫn liên tục nghĩ đến hai người chị/em – hai trong số một tá phụ nữ trên con thuyền của tôi bị cưỡng hiếp, bị tra tấn và bị tước đoạt phẩm giá. Là một thanh niên, tôi chưa từng cảm thấy mình vô dụng đến vậy. Tôi thường tự hỏi nếu những người phụ nữ đó đã có thể tiếp tục sống, liệu họ có chịu tiếp nhận tình yêu của một người đàn ông? Liệu họ có thấy được vẻ đẹp hay giá trị sự sống?

Đọc thêm
Công Tử Vượt Biên

Công Tử Vượt Biên

Mỗi lần thất bại như vậy, tôi lại càng thấy rõ sự trưởng thành và quyết tâm của y. Bẩy lần vượt biên không làm y nản chí mà trái lại càng làm y thêm kinh nghiệm và mưu lược hơn. Trong cuộc đời tôi, y là người bạn tôi mến phục và học hỏi được nhiều nhất.

Đọc thêm
Con Tàu Cap Anamur

Con Tàu Cap Anamur

Tác giả: Norman Aisbett Dịch giả: Thành Đặng Không một bản đồ nào có thể biểu hiện sự biến đổi lớn lao, mạnh mẽ của vùng biển Nam Hải và Vịnh Thái Lan. Ta phải lướt trên cái khoảng trống bao la đó, ngày qua ngày, không một bóng dáng đất liền trong tầm mắt, mới cảm...

Đọc thêm
Tìm Đường Tự Do

Tìm Đường Tự Do

Nguyễn Tài Ngọc Người Việt  ở ngoại quốc không ai không biết chữ "boat people -thuyền nhân”. Sau biến cố tháng 4 năm 1975, cả trăm nghìn quân nhân bị gửi đi cải tạo và cả trăm nghìn dân sự bị gửi đi vùng kinh tế mới. Theo những tài liệu tìm tòi của Hoa Kỳ và các quốc...

Đọc thêm