Hồi Ký Hải Hành Tìm Tự Do
Hồi ký: Thiên Anh Lạc
Phần 1
Mẹ tôi quyết định đưa chúng tôi đi vượt biển theo lời động viên của bố tôi đang học tập cải tạo ở Yên Bái, vì tương lai chúng tôi. Hơn thế nữa vì tầng trệt nhà tôi bị “tiếp thu” khi ông Tầu bán mì mướn nhà chúng tôi đi bán chính thức. Bởi vì còn hợp đồng mướn nhà nên bọn họ (Việt Cộng) cướp ngon ơ, nhà chúng tôi ở số 240 Trần Hưng Đạo, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận Nhì , Sài Gòn. Khi ấy, anh Hai tôi là dược sĩ nhưng phải làm ở Hàm Tân, nơi rừng thiêng nước độc, anh Ba trốn Nghĩa vụ quân sự sang đánh Campuchia, chị Tư đang học địa chất tương lai ra trường đi xa nhà, còn tôi thì làm công nhân viên nhà trẻ 20/10. Công việc giữ trẻ của tôi là vững nhất nên không phải bị đuổi đi kinh tế mới. Thế nhưng, họ dọa sẽ đuổi chúng tôi sang nhà khác vì muốn lấy trọn căn nhà ba tầng có mặt bằng ngon lành. Mẹ ốm yếu, chồng đi học tập cải tạo, bốn đứa tuy trưởng thành nhưng vẫn còn lo, rồi họ chuẩn bị đánh tư sản nên chúng tôi càng khổ vì phải đeo ruột tượng chứa của trong người.
Tôi có người bạn rủ đi vượt biên bằng tầu nhà nên nói với mẹ, mỗi người chỉ có 3 cây. Bạn tôi đồng ý cho tôi nợ, sang xứ Tự do đi làm trả lại. Mẹ không tin bạn ấy, còn tôi, tôi muốn đi nên nói với mẹ rằng thời buổi này ai có thân thì lo chứ tôi quyết không ở lại. Mẹ sợ tôi liều mạng bỏ nhà đi nên bắt đầu hỏi thăm các bạn trong chỗ làm. Ông này biết đường dây nên cũng muốn cho vợ con và cả gia đình em vợ đi, cả thảy là mười người thêm một cô cháu gái thành mười một, nhưng không có vàng đi nên tất cả đi bằng vàng mẹ tôi trả, khiếp chưa!!!
Chúng tôi bắt đầu lên kế hoạch từ đấy, còn về phần bạn tôi thì chuyến đi trễ hơn dự định nên mẹ tôi không nhập cuộc vì hai anh tôi cần đi gấp. Nhưng họ đòi cao quá vì thời gian 1978 là cơn sốt đi bán chính thức, có khi hơn mười cây vàng một đầu người nhưng đi vào chỗ chết vì bị Công An biên phòng giết cướp của. Vì hai anh tôi đi vượt biên hụt ở Phan Thiết nên mẹ tôi ú tim và muốn đi ngay tại Sài Gòn để có gì còn chạy về giữ nhà.
Mẹ phải chạy đôn chạy đáo bán hột xoàn để đổi vàng cũng không đủ nên định ở lại, chỉ cho chúng tôi đi. Ông bà ngoại và dì tôi không đồng ý vì sợ mẹ sẽ gặp rắc rối khi ở lại nên đã cho mẹ một hay hai cây cho đủ mà đi với các con.
Chúng tôi xuất phát từ 5 giờ sáng ngày 02/12/1978 tại bến Vân Đồn, nhưng Taxi không vào được vì bị bể ổ … nên chạy thục mạng về nhà mà không bị bắt. Tôi đạp xe về nhà trẻ đi làm gấp vì hôm đấy có phái đoàn hữu nghị Đông Đức đến quay phim nên không ai phát giác tôi đến trễ, hú vía!!!
Thế rồi, trưa hôm ấy chị tôi đưa cơm trưa đến cho tôi như mỗi ngày và nói chiều nay khoảng 2 hay 3 giờ là khởi hành, tôi phải làm sao có mặt gấp ở nhà lúc 1 giờ để chuẩn bị lên đường. Tôi quýnh quáng nói chị tôi chờ rồi chạy vào xin quản lý về nhà gấp vì có việc. Tôi bỏ cả xe đạp mini Lucia tuyệt đẹp, cơm canh, đồ cá nhân, nhu yếu phẩm ở nhà trẻ mà leo lên chiếc Yamaha cho chị tôi chở về nhà chờ ra khơi. Và lần này thì đi luôn ….
Gia đình tôi có năm người nên phải chia làm hai nhóm xuất phát từ hai nơi khác nhau dọc theo bến Chương Dương mà tôi không nhớ tên. Tôi đi sau với anh Hai, còn anh Ba đi với mẹ và chị Tư tôi đi trước. Anh Hai tôi khoá cửa cẩn thận và sang nhà ông bà nội tôi gởi chìa khoá. Lúc này xác cô đào Thanh Nga quàn tại nhà bầu Thơ cách nhà tôi hai căn, có đông người đến viếng nên họ đứng ngồi trước cửa nhà tôi đông lắm. Lợi dụng đám đông nên tôi lẫn vào tránh hàng xóm không thấy tôi ăn mặc luộm thuộm quần áo bà ba đen may bằng vải ú mầu đen nhuộm bạc phếch như lông chuột chù. Khi chúng tôi sang đường Trần Hưng Đạo để đi về đường Phát Diệm đổ xuống bến Chương Dương thì tôi gặp hai anh hàng xóm trợn mắt nhìn tôi như không ngờ, tôi phớt lờ đi như không quen biết vì sợ bị lộ.
Đến bờ sông thì chúng tôi chờ ghe tại một vựa bán củi, khoảng 2 giờ chiều có một chiếc ghe ba lá chở củi tấp vào bờ, họ ra hiệu cho chúng tôi bước xuống. Ghe lướt nhẹ chèo dọc theo mấy con kinh, con rạch lớn ra sông, khi gần đến cửa sông thì ghe ngừng để chúng tôi leo lên một con thuyền lớn hơn một chút chạy bằng máy đuôi tôm. Họ giấu tôi trong hầm máy nóng chảy mỡ, nằm cong queo, co quắp như con tôm bị luộc suốt gần 8 tiếng. Tôi không biết anh Hai tôi ở đâu, phòng máy tối om, chật chội, tiếng máy nổ chát chúa, hơi dầu cặn xông lên nghẹt thở. Có lẽ tôi ngủ thiếp đi vì thiếu dưỡng khí nên thời gian không đến nỗi qua chậm chạp.
Khi chiếc máy cùng con tầu ngừng hẳn, tôi cũng choàng tỉnh vì hơi mát của sông nước lùa vào trong lưng lúc cánh cửa mở toang. Họ kêu tôi ra khỏi hầm máy vì đã đến nơi, “cá lớn” đang chờ, xem đồng hồ là hơn 10 giờ đêm. Anh Ba tôi đang đứng trên boong giúp bà con từ “cá bé” hay còn gọi là taxi leo lên “cá lớn” vì nó cao quá. Anh Hai thấy anh Ba thì mừng rỡ và hỏi mẹ đâu rồi? Anh Ba trả lời mẹ và chị tôi đã ở trong hầm chứa cá.
Sau cùng thì tôi cũng được anh Ba kéo lên tầu. Nhìn xuống thì thấy xung quanh “cá lớn” là đầy hết “cá bé” với nhiều người leo lên rầm rập như đi hành quân. Bãi đã mua nên chúng tôi “vô tư”, thoải mái mà ồn ào, la thét và gọi nhau ơi ới đến nổi chủ tầu phải giục lên nhanh vì gần hết giờ, trời tối đen như mực như che mù cả mắt chỉ nhìn đựơc lờ mờ, phải cẩn thận không bị lọt xuống biển thì khốn. Được biết taxi của chúng tôi ra trễ nên họ phải chờ từ sáng sớm đến bây giờ. Nếu trót lọt hết từ sáng sớm thì thuyền đã ra khơi. Những người đến buổi sáng, dĩ nhiên, là chọn chỗ tốt, còn chúng tôi đến sau thì leo xuống hầm chứa cá đầy gián, eo ơi kinh hãi quá vì tôi rất sợ con gián.
Hầm tôi ở cuối tầu nên tôi phải nửa đứng nửa ngồi dọc theo độ uốn sườn tầu. Cơ thể mỏi mệt ê ẩm, đau nhức kinh hoàng, nhừ tử đói khát nên không nhận thấy cái hầm vừa bẩn vừa tanh, tiếng nước róc rách đập mạnh vào mạn thuyền từ những con sóng cơ hồ như có thể vỡ tan tành ra từng mảnh vụn. Không gian tĩnh mịch từ từ, mọi người đã lên hết, ngồi yên chỗ, máy đã nổ xình xịch to hơn, thuyền bắt đầu ra khơi lắc là lắc lư. Anh Ba tôi đã nhảy xuống hầm ngồi cạnh tôi, còn mẹ, chị và anh Hai tôi ở khác hầm. Chiếc thuyền mang bảng số “VT2352”, dài 20 rộng 4 thước, chứa 120 thuyền nhân vượt biển tìm tự do vào lúc nửa đêm ngày 02/12/1978 tại cửa biển Cần Giờ ….
Phần 2
Chiếc thuyền đang lướt sóng trên biển với tốc độ khá nhanh, Bỗng nhiên tôi nghe ồn ào léo nhéo bên trên, thuyền chậm lại và ngừng hẳn nhưng máy vẫn nổ ì ạch, ngoài khơi có tiếng tầu tiến lại gần đụng một cái cạch vào thuyền tôi rung rinh. Một giọng Bắc kỳ nhà quê, khê nồng khê nặc nói vọng sang:
“ĐM, chúng mày đi vượt biên à? Đi chui hả? Ông bắt bỏ mẹ hết chúng mày ở tù nhá”
Mọi người nghe đều chết sững, tôi bắt đầu nghe những tiếng lần chuỗi và cầu kinh bên đạo Ki Tô, trong những hầm bên cạnh. Còn hầm tôi thì im re, tôi còn nghe tiếng khóc và than:
“Kỳ này cải tạo mút mùa lệ thủy”
Có tiếng khác :”Giê Su Ma, cứu con”
Ban tổ chức trên boong đang phân trần nói vọng qua tầu tuần tra. Bỗng nhiên, thuyền bên tôi rồ ga bỏ chạy ráo riết, tôi nghe có tiếng gì rơi bõm xuống nước, sau đó là những tiếng súng nổ. Tôi nhìn lên khoảnh vuông ở cửa hầm đạn bay vèo vèo toé lửa. Tầu Công An rượt thuyền chúng tôi mà bắn như phim James Bond. – 007. Tôi thấy có một vật gì nặng và tròn như hộp sữa đặc rớt trúng đầu, tôi đau điếng la bài hãi vì bị u khá nặng. Anh Ba tôi hỏi chuyện gì vậy? Tôi tả có cái gì rớt vào đầu. Anh tôi hốt hoảng la lớn đó là đạn M79 rồi, nó mà quay đủ vòng thì sẽ nổ chết banh xác nên tôi phải tìm cho ra. Anh nói ngồi im nhưng tôi mò mẫm xung quanh mà không thấy trong khi anh Ba tôi la lối và hối quá. Sợ quá chừng nên tôi nhớ đến ba câu thần chú trong ngũ bộ chú mà bà tôi đã dạy nên tôi đọc loạn xạ:
“Án Lam, Án Sỉ Lam, Án Bộ Lâm”
Thật là linh ứng khi tôi tìm thấy nó nằm trên đùi tôi. Tôi đưa cho anh Ba tôi, cầm lên anh chửi thề và nói đúng là đạn M79 rồi. Anh Ba tôi đưa một anh đứng phía trên và quăng xuống biển, một tích tắc sau, tôi nghe một tiếng nổ chát chúa dội vào. Thế là chúng tôi thoát nạn vì họ tưởng thuyền đã chìm, để đó, sáng mai ra vớt xác cướp của. Cũng vì trái đạn M79 này mà các ân nhân đưa chúng tôi ra “cá lớn” đã báo hung tin về cho thân nhân làm những người ở lại bàng hoàng, nhưng cũng có tin vui là chúng tôi đi thoát. Sau này nghe kể lại là khi tên công an chân trước chân sau bước sang thuyền chúng tôi thì nhanh như chớp anh tài công rú ga cho thuyền chạy, thế là hắn mất thăng bằng nên rơi tõm xuống biển, các anh này cũng trang bị súng ống dữ dằn.
Thế là thuyền cứ chạy phom phom, lắc lư, thuyền nhân say sóng ói mửa liên miên đến mật xanh mật vàng. Trước khi rời nhà, ai nấy đều tưởng bở là đi vượt biên như đi du lịch theo lời dụ dỗ của người tổ chức, có ai dè chúng tôi đều là cá mòi nằm trong hầm thật bẩn thỉu, chật chội, người nọ ói mửa lên người kia ngửi mùi chua loen loét. Hai người ngồi hai bên dựa hẳn vào người tôi nặng trĩu, tôi không cựa quậy, nhúc nhích gì được, nắp hầm lại đóng đến ngộp thở. Hơi người bốc lên nồng nặc, sáng ra mới biết hầm tôi toàn thanh niên vì ở đầu thuyền, giữa thuyền bằng phẳng và êm hơn. Vì taxi tôi đến trễ nên họ nhét tôi vào đấy, cơ khổ!!!
Rồi thì trời cũng sáng, rạng đông mà thuyền vẫn còn trong hải phận Việt Nam nên chúng tôi vẫn phải núp trong hầm nhưng họ đã mở nắp hầm cho thoáng khí. Từ miệng hầm, tôi thấy ánh nắng mặt trời đã chiếu lung linh niềm tin yêu hy vọng cho một ngày mới. Người tôi ê ẩm, hôi thối vì những chứng tích nôn ọe từ tôi hay người khác. Miệng đắng ngét bởi dịch vị mật ói hôm qua, bụng đói cồn cào vì thức ăn chưa kịp tiêu hoá đã nôn thốc nôn tháo ra hết. Vai vẫn đeo cái túi vải trong đó có vài bộ quần áo, mấy cái bánh giầy phơi khô, hai hộp sữa bò, một gói đường cát trắng, thế mà giờ đây nặng trĩu trên vai. Tôi lận lưng thì chiếc túi ni lông vẫn còn, bên trong chứa một quyển kinh nhật tụng bỏ túi bố tôi cho, một bản chú Lăng Nghiêm bà nội tôi cho, một quyển Bạch Y thần chú do một Thầy ở chùa Xá Lợi cho khi tôi còn học Gia Long và $20 đô Mỹ mẹ cho, còn tiền Việt thì tôi đã cho hết các anh chị ở “cá nhỏ” và ghe. Sau nầy bị mẹ tôi rầy là ngu, vì nếu bị bắt lại thì không có tiền xoay xở. Tôi nghĩ cho vui là có lẽ người tôi bọc kinh Phật nên không chết vì đạn, tâm lành cho đi hết tiền nên được lại hết, thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc. Thuyền vẫn tiếp tục chạy, thỉnh thoảng tôi nghe họ chào hỏi những chiếc thuyền khác đang đi đánh cá, họ cũng tưởng thuyền tôi đi như họ, sóng gió dữ dội nhưng chẳng ai còn hơi sức đâu mà say sóng, hôm nay đã là ngày 03/12/1978.
Đến trưa ngày 04/12/1978, họ mới báo cho chúng tôi biết là chuyến đi đã thoát vì đang ở hải phận quốc tế, chúng tôi có thể ra khỏi hầm mà lên boong. Tất cả mọi người đều vỗ tay khen ngợi, cám ơn các anh tài công lái quá giỏi khi biển đang có bão đến cấp 8. Còn tôi, tôi đi tìm mẹ và chị vì mấy ngày rồi không gặp, không thấy trên boong nên tôi đi từng hầm một mà tìm. Mẹ và chị ở hầm tốt hơn ngay bụng thuyền nên ngồi bẹp xuống được. Mẹ đưa tôi mấy củ đậu bảo ăn đi cho đỡ đói khát, mẹ rất hay là không bị say sóng vì có uống thuốc sớm hơn chúng tôi. Ban tổ chức bắt đầu thổi cơm, xong rồi cho mỗi người một nắm nhỏ ăn cầm hơi, nước uống một ngụm. Họ cho biết là mấy lu nước bị đổ khi bị Công An biên phòng đuổi chạy thục mạng. Hơn thế nữa, ông Hổ là người trong ban tổ chức không tiếp tế lương thực, nước uống, thuốc men cho thuyền vì thua bài bạc hết tiền. Chính ông ta cũng không chồng vàng mẹ tôi đóng cho chủ tầu nên gây phiền phức rắc rối cho gia đình tôi về sau!!!
Những ngày sau thì thuyền chạy chậm lại, nhắm hướng Tây Nam mà tiến, tránh vịnh Thái Lan vì có các cô em gái chủ thuyền cũng có mặt. Nghe nói là họ sẽ đâm thẳng xuống Singapore vì chế độ và trại tị nạn ở đấy dễ dàng hơn nơi khác. Trời nắng gắt khô khan, không nước uống, không thức ăn nên chúng tôi bắt đầu đói rã nằm sóng soài. Cái chết cận kề mà chúng tôi còn bị ban tổ chức đến nạt nộ, hù dọa là sẽ đạp xuống biển vì đi “canh me!!!”. Mẹ tôi khóc hết nước mắt, còn hai chị em tôi thì năn nỉ, sau đó họ trấn lột hết dây chuyền, vòng vàng, nhẫn … cả tiền Mỹ của mẹ và chị em tôi, họ không dám làm gì hai anh tôi. Có hai gia đình kia cũng đồng cảnh ngộ, một đàn tám đứa con nít và hai bà mẹ. Thế là ba bà mẹ ngồi khóc thút thít, sau đó ông chủ tầu mới đến nói chuyện với mẹ tôi, phân trần phải quấy. Hai ông già dữ tợn với chúng tôi ngượng ngùng bỏ đi mất. Nhưng mà kể từ đấy họ cũng không cho chúng tôi ăn uống gì cho đến khi vào bờ, có những lúc tôi ở hầm mẹ tôi vì sóng lớn, lấy những củ đậu đang trôi trên nước, lột vỏ xong, cắn vào, vừa nhai lại phải phun ra hết vì khai mùi nước tiểu.
Có những lần, chúng tôi thấy những chiếc tầu chở hàng hoá ở xa xa, nhưng họ không vớt mà bỏ đi luôn hay không thấy thuyền chúng tôi. Bốn bề là nước trong xanh, nắng chiếu gay gắt nên chúng tôi mệt lả vì thiếu nước. Đêm đến đen kịt một mầu, không thấy chi hết, chỉ nằm im, không dám đi đâu vì sợ lọt xuống biển. Đến ngày thứ ba thì tôi phát cuồng vì khát, tôi múc nước biển pha với đường mà uống càng khát thêm. Có một anh ở cùng xóm (đại lý xe Honda Minh Đạo ở Sài Gòn) ngăn không cho tôi uống rồi cho tôi hai đốt me để ngậm cho đỡ khát, bánh giầy tôi mang theo không ăn được vì cứng quá, mấy hộp sữa thì cho con nít bú và uống, tôi thực sự đói khát lắm nhưng mệt quá ngủ li bì nên cũng quên phần nào.
Khi thì biển hiền hoà, khi thì thịnh nộ cuốn những đợt sóng cao như một toà nhà mười tầng, khi ấy, chúng tôi chỉ ngồi yên chịu đựng chờ thuyền lật úp, nhưng lạ làm sao là những cột sóng đưa thuyền lên cao, rồi thả xuống đột ngột mà thót tim thót ruột, những lần như thế là chúng tôi lại ướt nhẹp. Có khi thấy cá heo lội dọc theo, có khi lại thấy cá bay, nó bay theo một đoạn.
Cuộc hành trình cứ tiếp tục cho đến khi chúng tôi thấy đất liền, mừng rỡ khôn xiết thì tài công nói đó chỉ là Malaysia thôi, không phải Singapore. Chúng tôi phản đối quá, vì nếu đi thêm nữa thì không ai chịu nổi, sẽ có người chết, nhất là con nít. Thế là tài công bẻ lái tấp vô bờ, vào gần đến bờ thì thấy các ngư dân người Hoa trên Tầu, có người nói được tiếng Hoa nên chúng tôi xin nước thì họ lại cho cả cần xé cá ướp nước đá. Nhiều người khát quá bốc đại nước đá mà ngậm. Đang xin họ nước thì tầu tuần tra đã đến, nét mặt lạnh tanh, họ ra hiệu cho thuyền đi theo họ ra khơi. Chúng tôi ngơ ngác không hiểu gì thì họ trở nên hung dữ, rút súng bắn chỉ thiên rồi kéo thuyền chúng tôi ra xa khỏi bờ. Chúng tôi đã hiểu là bị họ xua đuổi nên tủi nhục và buồn lắm.
Bất chợt trời chuyển mưa, một cơn mưa rào đổ đến, chúng tôi mừng quýnh lấy đồ ra hứng nước, tôi cho mượn chiếc áo mưa, căng rộng ra mà hứng. Bà con cô bác xúm lại giành giựt nhau từng ngụm nước, ai nấy đều tắm mưa, rũ bỏ mọi thứ dơ bẩn trong năm ngày qua tuy áo quần đã rách bươm vì thấm nước biển.
Trời quang mây tạnh thì ghe cá ban nãy gặp, họ đến gần ra hiệu là thừa lúc lính biên phòng Mã Lai đang ăn trưa thì mau mau đâm thuyền vào bờ và phá hỏng máy đi rồi đổ bộ. Họ cho biết tháng trước cũng có một chiếc thuyền tị nạn đến đây bị lính Mã Lai kéo ra và bị chìm nên chết hết. Thế là tài công quay thuyền về phía bờ, chạy hết tốc lực đâm thẳng vào cát lẫn mấy hòn đá. Tất cả mọi người nhảy xuống, thuyền cao quá nên nhảy cũng phê, tôi chỉ lo cho mẹ nhưng đã có hai anh tôi rồi. Xui cho tôi là khi nhảy ùm xuống, vì không thấy hòn đá dưới nước nên lồng ngực đập vào đá, đau quá nằm luôn. Tôi nghe được hết tiếng mẹ tôi la thất thanh nhưng dậy không nổi nên chẳng biết ai đã khiêng tôi vào bờ. Tôi nhắm nghiền mắt và lẩm bẩm:
“Tôi đã đến bờ tự do rồi …., tôi phải đổi cả mạng sống vì hai chữ TỰ DO”. Hôm ấy là xế chiều ngày 07/12/1978.
Lời kết
Đã hơn 40 năm trôi qua, tôi vẫn là thuyền nhân tị nạn chính trị vì gia đình tôi thuộc Nguỵ quân, Nguỵ quyền dưới chế độ cũ , và bị đe dọa lấy nhà đi kinh tế mới bởi chính quyền Cộng Sản. Viết và kể thì tôi cũng làm nhiều lần trong những năm qua, đây là lần cuối tôi viết kể lại tỉ mỉ hơn những lần trước, như anh Ba đã nói viết lại thêm buồn, đúng vậy, viết thì phải nhớ, mà nhớ thì thêm buồn. Có nhiều chuyện tế nhị không viết ra vì đó là chuyện cá nhân của mỗi người mà nhân chứng là một gia đình khác, cùng thuyền, hiện đang sống tại Adelaide.
Thiên Anh Lạc
Vượt Biển Đến Úc
Có nhiều cuộc vượt biên bằng ghe thuyền được viết và phổ biến trong suốt thời gian dài trên bốn mươi năm mà phần lớn trong những trường hợp đầy thương tâm và chết chóc trên biển cả. Trường hợp của nhóm chúng tôi gồm một tàu hoa tiêu (pilot boat) …
Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma
Trong suốt sáu tháng tôi sống nhờ vào một chén cơm với muối mỗi ngày. Tôi là một tù nhân, bị giam bởi vì một vài công an đã kết luận tôi là một điệp viên CIA khi họ tìm thấy tấm ảnh của tôi với một người Mỹ…
Mẹ Tôi
Sau ngày Sài Gòn thất thủ, gia đình tôi đã trải qua một cuộc đổi đời biển dâu dưới chế độ Cộng Sản. Mong cho các con có được một đời sống tốt đẹp hơn, Ba Mẹ tôi đã quyết định cho các con đi vượt biên, chia làm nhiều đợt. Lý do đơn giản là lỡ có xui xẻo gì xảy ra dọc đường hay trên biển, thì dẫu có là một mất mát đớn đau cho cả nhà, nhưng không đến nỗi phải mất hết…
Mấy đứa con gái, mấy đứa con gái kìa! Giấu tụi nó đi!
Chúng tôi đã đủ lớn để giấu mình, và chúng tôi đã nhảy lên lập tức và bò vào chỗ bọn họ không thể nhìn thấy. Có hai người bọn họ, qua đôi mắt bảy tuổi của mình, tôi thấy họ cầm những thanh kiếm ánh lên vẻ tàn nhẫn khi họ nhảy lên thuyền của chúng tôi…
Sống Để Kể Lại
Kể từ khi vượt biên khỏi Việt Nam, hai mươi lăm năm trước, tâm trí tôi vẫn liên tục nghĩ đến hai người chị/em – hai trong số một tá phụ nữ trên con thuyền của tôi bị cưỡng hiếp, bị tra tấn và bị tước đoạt phẩm giá. Là một thanh niên, tôi chưa từng cảm thấy mình vô dụng đến vậy. Tôi thường tự hỏi nếu những người phụ nữ đó đã có thể tiếp tục sống, liệu họ có chịu tiếp nhận tình yêu của một người đàn ông? Liệu họ có thấy được vẻ đẹp hay giá trị sự sống?
Công Tử Vượt Biên
Mỗi lần thất bại như vậy, tôi lại càng thấy rõ sự trưởng thành và quyết tâm của y. Bẩy lần vượt biên không làm y nản chí mà trái lại càng làm y thêm kinh nghiệm và mưu lược hơn. Trong cuộc đời tôi, y là người bạn tôi mến phục và học hỏi được nhiều nhất.
Con Tàu Cap Anamur
Tác giả: Norman Aisbett Dịch giả: Thành Đặng Không một bản đồ nào có thể biểu hiện sự biến đổi lớn lao, mạnh mẽ của vùng biển Nam Hải và Vịnh Thái Lan. Ta phải lướt trên cái khoảng trống bao la đó, ngày qua ngày, không một bóng dáng đất liền trong tầm mắt, mới cảm...
Tìm Đường Tự Do
Nguyễn Tài Ngọc Người Việt ở ngoại quốc không ai không biết chữ "boat people -thuyền nhân”. Sau biến cố tháng 4 năm 1975, cả trăm nghìn quân nhân bị gửi đi cải tạo và cả trăm nghìn dân sự bị gửi đi vùng kinh tế mới. Theo những tài liệu tìm tòi của Hoa Kỳ và các quốc...
Hành Trình của Chuyến Đi Tha Hương Không Hồi Kết
Sau biến cố năm 1975, ở Việt Nam có một làn sóng vượt biên mạnh mẽ. Có rất nhiều người di tản vượt biên bằng đường biển và đường bộ, nhưng phương tiện được nhiều người sử dụng nhất là đường biển…
Thuyền Nhân Việt Nam trên Đất Úc
Vào cuối tháng 4 năm 1975, chính quyền Cộng Sản Bắc Việt đã xâm lăng miền Nam Việt Nam. Người dân không sống nổi dưới chế độ Cộng Sản nên sau đó họ đã kiếm đường ra đi tìm tự do…