Hành Trình của Chuyến Đi Tha Hương Không Hồi Kết
Tác giả: Nguyễn Đặng Vy Anh
Sau biến cố năm 1975, ở Việt Nam có một làn sóng vượt biên mạnh mẽ. Có rất nhiều người di tản vượt biên bằng đường biển và đường bộ, nhưng phương tiện được nhiều người sử dụng nhất là đường biển. Theo thống kê của tổ chức di dân quốc tế, có khoảng 2 triệu người Việt đã vượt biên theo đường biển. Tuy gian lao khổ cực nhưng tại sao vẫn nhiều người liều mạng vượt biên? Xin phép được dấu tên nhân vật vì những ký ức đau thương trong quá khứ và quyền riêng tư. Xin mời các bạn theo chân hồi ức của cô A một bằng chứng sống đã thành công vượt khỏi kiếp nạn.
Khi còn trẻ cô là một nhân viên y tá đầy tâm huyết ở Rạch Giá. Lúc bấy giờ dịch sốt xuất huyết hoành hành nghiêm trọng nhưng thuốc men cho bệnh nhân thì khan hiếm. Số lượng người tử vong tăng vọt. Đối mặt với đói nghèo và bệnh tật, cuộc sống của bà con nơi đây phải gánh chịu cảnh lầm than và đau khổ. Vào đầu năm Kỷ Mùi tức năm 1979, để thoát khỏi số phận đói khổ người anh Cả trong nhà cô Hồng quyết định ra đi tìm cuộc sống mới. Trước khi nhổ neo ra biển, cô A có mang thuốc cảm sốt cho anh trai mình để đi đường phòng hờ. Nào ngờ đâu đã tới giờ xuất phát, cô không thể quay lên bờ được nữa, vì nếu quay lại sẽ bị bắt. Cô A đành ngậm ngùi từ bỏ quê hương, trong tinh thần chưa sẵn sàng. Chuyến đi bất ngờ làm cô chỉ mang theo vỏn vẹn hai bộ quần áo mà cô mang theo để trực ngày hôm đó.
Chuyến hành trình thay đổi cuộc cuộc đời cô chính thức bắt đầu. Liệu phía trước là thiên đường hay địa ngục là câu hỏi được đặt ra canh cánh trong lòng của 34 người Việt trên chiếc thuyền đánh cá mỏng manh. Trước khi rời khỏi hải phận của Việt Nam, thuyền của cô bị cán bộ chặn lại dò xét, họ phải nộp một khoản phí trước khi đi. Cửa ải đầu tiên vượt qua suôn sẻ nhưng chưa dừng lại ở đó, 4 ngày tiếp theo cơn đói khát khiến cả chiếc thuyền quằn quại chật vật. Khổ thay, tai nạn lại ập đến, thuyền của cô bị một nhóm cướp biển Thái Lan cướp sạch. Chúng nhốt cả thuyền vào một hang động. Hang động ẩm ướt bốc mùi hôi thối càng làm khiến cho không khí trở nên nặng chịch não nề. Bọn cướp mất nhân tính còn bắt hai cô gái trẻ vào cabin để thực hiện những hành động đồi bại man rợ. Nhưng cuối cùng thuyền của cô Hồng cũng đã vượt qua và được thả. Những ngày tiếp đó thuyền cũng lại bị cướp biển chặn cướp nhưng may mắn là không một sinh mạng nào bị tổn thất.
Những ngày tháng lênh đênh trên biển cả dài đăng đẳng khiến cô A không còn thiết tha đếm ngày đếm tháng nữa. Mỗi ngày trên biển đối với cô như một cực hình. Buổi sáng thì phải chịu cơn đói khát và cái nắng gay gắt của mặt trời thiêu đốt. Tối đến cô vẫn bị cơn đói khát đeo bám, nhưng ác mộng vẫn là những cơn thủy triều. Những trận cuồng phong kéo theo những cơn sóng khổng lồ đánh vào bệ thuyền, chưa kịp hoàn hồn thì sóng đã giật chìm chiếc thuyền. Tình hình ngàn cân treo sợi tóc, cứ tưởng chừng như cái chết đang cận kề. Nhưng cái tinh thần bất khuất, kiên cường ấy đánh bật tất cả những gian nan. “Trong cái khó ló cái khôn” để cứu nguy cho chiếc thuyền, người ta phải đục một lỗ hổng để cho nước thoát ra, sau đó gom đồ đạt lại để vá chiếc thuyền.
Những niềm hy vọng loé lên kèm theo đó là những dòng lệ hạnh phúc khi thuyền của cô cuối cùng cũng có điểm dừng chân. Đó là ở đảo Pulau Bidong thuộc Mã Lai. Cô cùng anh trai của mình và những người bạn vui mừng vì đã có chỗ dừng chân. Tuy gian lao cực khổ, nhưng cô A vẫn nuôi hy vọng sẽ có ngày được cứu giúp. Ở trại tị nạn này diễn biến khá phức tạp, mỗi ngày đều có người đến phỏng vấn xem coi bạn có đủ tư cách tị nạn hay không? Cô A sống trong sự thất thần và bất an vì đây không phải là nơi thích hợp để ở lâu.Chính phủ chỉ cung cấp một hộp cá mồi và một hộp đậu để ăn cho cả tuần. Cô hằng ngày phải đi bắt ốc bắt cá để kiếm kế sinh nhai qua ngày. Tại nơi đây tình yêu đầu đời của cô gái trẻ chớm nở, tình yêu ấy chính là người chồng yêu quý hiện tại của cô. Lúc đó hai người đến với nhau cũng khó khăn, vất vả lắm nhưng nhờ tương trợ lẫn nhau, cuộc sống của cô trở nên ý nghĩa hơn.
Vào tháng 11 năm 1979, cuối cùng cô và chồng của mình cũng đã đặt chân tới Úc. Đến với đất khách xứ người, còn bỡ ngỡ và không quen biết ai. May mắn lại đến với cô khi gặp được hai người bạn Úc đến từ hội từ thiện. Họ giúp cô có chỗ ăn, chỗ ở và tạo cơ hội việc làm cho cô. Lúc đó chính phủ Úc cũng nhân đạo tài trợ cho những người tị nạn khiến cô cũng đỡ vất vả. Ước mơ lớn nhất của vợ chồng cô A là có thể tiếp tục con đường học vấn để có bằng cấp. Nhưng ngặt nỗi cô lại mang thai, kinh tế tài chính vẫn còn khó khăn. Chính vì thế cô ở nhà để may những con rối tuy không nhiều nhưng vẫn trang trải đủ tiền chợ lo cơm nước, còn chồng thì làm ở hãng xe hơi. Một thời gian sau đó cô cũng làm việc tại nhà máy sản xuất nhựa. Tuy làm đủ ăn, nhưng vì có chí hướng lớn, và ham học hỏi cô không muốn bị lệ thuộc hay làm công cho ai cả. Hai vợ chồng cô lại mày mò đi học làm “farm”. Những người Việt Nam đi trước họ cũng tận tình giúp đỡ truyền đạt kinh nghiệm. Lúc đầu cũng phải đi thuê đi mướn chỗ để làm, nhưng nhờ chăm chỉ cố gắng cộng thêm tiết kiệm, cuối cùng vợ chồng cô cũng đủ khả năng mở cho mình một nông trại riêng. Nhờ công việc ổn định, cô cũng ráng dành dụm gửi tiền về giúp gia đình ở Việt Nam.
Ngoài ra, cô A và chồng mình còn tham gia vào Cộng Đồng Người Việt Nam ở Nam Úc. Cô thường trình diễn văn nghệ giúp vui và giúp đỡ những người Việt khác. Trong khoảng thời gian làm việc và sinh sống ở Úc, cô và chồng của mình có với nhau được năm người con. Bây giờ con của cô khi lớn lên ai cũng thành đạt và vào được đại học, hoàn thành tâm nguyện học tập dang dở của cô. Cuối cùng chuyến hành trình tha hương của cô A cũng có một cái kết viên mãn. Câu chuyện và cuộc đời của cô A khiến chúng ta phải nghiền ngẫm. Bằng sự kiên cường và nỗ lực không ngừng khiến cô A là tấm gương sáng để mọi người noi theo.
Nguyễn Đặng Vy Anh
— Bài Học Sinh Viết Dự Thi —
Related Articles
Cụm Bèo Lục Bình
Thấm thoát đã gần 21 năm lưu lạc nơi xứ người, mấy đứa con của chúng tôi bây giờ đã lớn. Tôi cũng thường kể lại chuyện cũ cho chúng nghe, luôn cả chuyện về anh chàng thanh niên trẻ đó. Và tôi cũng thường nhủ lòng rằng phải ráng lên để…
SOS!Cứu chúng tôi với!
Hồi tưởng lại thảm kịch vượt biên của người Việt, hiểm nguy, chết chóc, cướp biển, hãm hiếp, mất hết tiền bạc, trái tim tôi dường như vẫn còn đau nhói. Nhưng mặt khác tôi có dịp giúp đỡ các cháu không thân nhân, thật là một thời gian sống có ý nghĩa.
Hồi Ký Hải Hành Tìm Tự Do
Bốn bề là nước trong xanh, nắng chiếu gay gắt nên chúng tôi mệt lả vì thiếu nước. Đêm đến đen kịt một mầu, không thấy chi hết, chỉ nằm im, không dám đi đâu vì sợ lọt xuống biển.