Gia Đình là Tất Cả

19/01/2021 | Trại Tỵ Nạn

Tác giả: Henry Ku

Trải nghiệm của tôi với người Việt di cư bắt đầu từ năm 1975.  

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền miền Nam Việt Nam sụp đổ và Sài Gòn rơi vào tay quân đội miền Bắc Việt Nam. Người người giành giật nhau để đi khỏi nơi đó. Cả thế giới chứng kiến trên truyền hình cảnh tượng thảm thiết và buồn bã. Mọi người chen lấn nhau để leo lên máy bay trực thăng ở tòa đại sứ Hoa Kỳ. Vài người trong chúng ta chắc hẳn vẫn còn nhớ cảnh tượng những thuỷ quân Hoa Kỳ đẩy bỏ nhiều chiếc trực thăng từ mẫu hạm xuống biển để có thêm chỗ cho trực thăng khác đáp xuống. Những người Việt khác chạy trốn khỏi quê hương trên những con thuyền. Họ chiến đấu hoặc dùng tiền để mua cho mình một chỗ trên bất kỳ cái gì có thể nổi được. Đó là một sự kiện đầy bi thương và kinh hoàng.  

Bốn ngày sau, mùng 4 tháng 5, khoảng bốn ngàn người tỵ nạn tiếp cận được vùng biển Hồng Kông. Những sinh mạng con người trên những chiếc tàu nhỏ đủ loại được vớt bởi con tàu chuyên chở hàng hoá MV Clara Maesk của Hà Lan. Cảng tiếp theo và gần nhất là Hồng Kông, và chỉ với những thông báo rất sơ sài, vấn đề người tỵ nạn đã rơi xuống đầu chính phủ Hồng Kông.  

Hồng Kông quyết định cho phép người tỵ nạn cập vào bờ. Kế hoạch là đem những người tỵ nạn vào những doanh trại quân đội bỏ trống vì quân đội Anh đang từ từ rút đi. Các doanh trại này được giữ gìn ngăn nắp và trong trạng thái sẵn sàng cung cấp chỗ ở cho những người mới đến. 

An ninh bên ngoài các trại được giao cho cảnh sát còn hành chính bên trong giao phó cho Dịch Vụ Cứu Trợ Dân Sự (Civil Aid Services – CAS), một quân đoàn dân sự quốc phòng của Hồng Kông. CAS là một cơ quan vạn năng, như mọi cơ quan dân sự quốc phòng khác trên thế giới, công việc của nó là ứng phó với các thảm hoạ thiên nhiên và thảm hoạ con người. Thành viên của tổ chức CAS là các tình nguyện viên, được huấn luyện để giải quyết những yêu cầu cấp thiết của hàng loạt những hành động khẩn cấp khác nhau.    

Là một nhân viên của CAS tôi được triệu tập để chuẩn bị cho trại Dodwell Ridge ở New Territories. Tôi chịu trách nhiệm tiếp nhận, ghi tên vào sổ danh bạ những người tỵ nạn khi họ đến nơi, xếp đặt giường trong những chiếc lều nhỏ và phân chia những người tỵ nạn vào những chiếc lều này. 

Chúng tôi đến nơi vào sáng Chủ Nhật. Doanh trại không quá rộng lớn và những cái lều, diện tích mỗi lều chừng 6m ⋅ 7m50, nằm thành từng nhóm chặt chẽ. Mỗi lều như vậy có bảy đến tám cái giường dã chiến. Vì chúng tôi không thể biết được bao nhiêu người tỵ nạn sẽ đến, chúng tôi phải tận dụng tối đa không gian trong mỗi cái lều.  

Đến cuối buổi chiều thì mọi thứ đã sẵn sàng. Chúng tôi chờ đợi trong khi thời gian cứ trôi qua cho đến giữa đêm thì những người tỵ nạn bắt đầu đến trên những chiếc xe tải của chính phủ. Theo kinh nghiệm tôi biết mỗi chiếc xe như vậy thường chở hai mươi ba người. Cũng may là tháng Năm không quá nóng bức và mùa mưa cũng sẽ chưa bắt đầu vào tháng kế tiếp. Đêm mát mẻ và quang đãng; ánh sáng đủ để nhìn thấy ở khu thao trường, địa điểm đầu tiên họ được dẫn đến. Họ trật tự, lặng lẽ xếp hàng và di chuyển khi đến lượt. Vì có một vài người Hoa trong số người tỵ nạn nên việc giao tiếp với họ không mấy khó khăn. Sau khi ghi danh, chúng tôi phát cho họ những tấm thẻ nhỏ trên đó có ghi số lều. Họ được dẫn tới một phòng ăn, nơi đó nhóm binh sĩ người Anh đã chuẩn bị sẵn những bữa ăn đơn giản cho họ. Điều tôi quan tâm chỉ là đưa họ vào đúng lều càng nhanh càng tốt.     

Cảm giác của tôi là tinh thần của họ còn khá tốt, nhưng trông có vẻ mỏi mệt, cũng dễ hiểu vì họ đã phải di chuyển qua chuyến hành trình rất dài và bây giờ đã quá nửa đêm.  Chúng tôi cũng muốn nghỉ ngơi, một vài người trong chúng tôi đã làm việc liên tục gần hai mươi tiếng đồng hồ. Lúc gần hừng đông, không gian cuối cùng cũng trở nên im ắng. 

Đó là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với những con người chạy trốn chiến tranh, và tôi chưa từng chứng kiến hoàn cảnh đáng thương nào như vậy trước đây. Có hai điều chắc chắn là tôi đã hiểu được.  (1) Nếu bạn chưa sẵn sàng khi phải chạy trốn, bạn sẽ chạy trốn với bàn tay trắng. Không có thời gian để thu góp. (2) Gia đình của bạn là điều quan trọng duy nhất.  

Những  điều tôi quan sát cho thấy rằng gia đình là mối quan tâm hàng đầu. Đã có những lần chúng tôi phải tách rời một gia đình ra vì hầu hết các giường trong lều đã có người. Mặc dù chúng tôi bảo đảm rằng thành viên còn lại của gia đình có thể được ở trong lều kế bên, chỉ cách có năm bước chân, nhưng cả gia đình lại cầu xin được phép chờ cái lều trống tiếp theo để họ có thể được ở cùng nhau. Tất nhiên là chúng tôi đồng ý yêu cầu đó. Bài học của câu chuyện là: trong thời gian đau khổ cùng cực, gia đình chính là tất cả bạn có và bạn có thể chiến đấu với mọi thế lực dưới trời xanh kia để gia đình được tồn tại với nhau. Tôi đã không hiểu rõ giá trị bài học trên cho đến sau này, khi chính tôi trở thành một người nhập cư. Gia đình tôi, anh chị em ruột của tôi đã giúp cho tôi đi tiếp trong lúc tôi gần như tuyệt vọng.  

Sau đó hai tuần, chính quyền trung ương xét thấy họ không thể cung cấp người triền miên cho trung tâm quản lý theo lối dành cho một trường hợp khẩn cấp nữa. Thông qua một sự sắp xếp giữa các cơ quan, tôi nhận được thông báo trong vòng hai mươi bốn giờ phải rời vị trí công tác cũ và nhận vị trí mới, rốt cuộc là tôi trở thành Quản Lý (Controller) của Trung Tâm Quản Lý Người Tỵ Nạn (Refugee Control Centre – RCC). Trong vòng bốn tháng, tôi làm việc trong một văn phòng không có cửa sổ từ tám giờ sáng đến sáu giờ tối, từ thứ hai đến thứ bảy, không bao giờ thấy được ánh mặt trời và bị vây quanh bởi một biển đầy những cái điện thoại và các thiết bị truyền thông khác.  

Sau đó hoạt động tái định cư bắt đầu. Những quốc gia tạo cơ hội cho hoạt động tái định cư đáng chú ý nhất là Hoa Kỳ, Canada và Úc. Tôi nghe nói là người Úc là những người tổ chức công việc tốt nhất, thậm chí họ còn phái đến những nhân viên nói tiếng Việt. Đến tháng 8 năm 1975, hầu hết người tỵ nạn đã rời khỏi Hồng Kông. Công việc dần dần ngừng lại và các doanh trại bắt đầu đóng cửa. Khi không còn nhiều việc để làm nữa, tôi xin phép được trở về với thế giới thực ngoài kia. 

 

Tình trạng khẩn cấp lần nữa – Câu chuyện Thuyền Nhân

Vào cuối thập niên 70, chính quyền Việt Nam quyết định họ sẽ ‘cổ vũ’ những người mà họ ‘không cần’ rời khỏi Việt Nam. Ở miền Bắc, những người ‘không được cần đến’ phải rời đi bằng ngả đường bộ sang Trung Quốc qua cái cửa khẩu có cái tên mỉa mai là Hữu Nghị. Ở miền Nam, người tỵ nạn sử dụng những con thuyền nhỏ, đi ra biển lớn, hoặc cố lèo lái đến một thiên đường an toàn nào đó hoặc chờ để được những tàu lớn ngang qua vớt đi. Không phải quốc gia nào trong khu vực cũng sẵn sàng đón nhận người tỵ nạn. Cũng vậy, một số trượng hợp, mưu đồ được dàn xếp bởi những kẻ làm tiền nhẫn tâm, chúng mua lại những con tàu cũ nát, sơn lại bên ngoài và nhận chở những người tỵ nạn có thể chi tiền, chỉ cho mỗi người khoảng không gian vô cùng hạn chế trên tàu. Thảm kịch nhân loại này sau được gọi là Cuộc Ly Hương của người Việt Nam (Vietnamese Exodus) hay là Câu chuyện Thuyền Nhân (Boat People Saga). Năm 1980, có tổng cộng 75.000 thuyền nhân đi bằng thuyền đến Cảng Hồng Kông.  

Chính phủ Hồng Kông phải thiết lập nên một hệ thống để giải quyết tình trạng khẩn cấp. Tôi được tuyển dụng và giao nhiệm vụ đặc biệt này bởi một người mà sau đó trở thành Thứ Trưởng An Ninh (Deputy Secretary for Security). Tôi từng làm việc cho ông trong một trường hợp khẩn cấp trước đó, vậy nên chúng tôi đã quen thuộc tác phong làm việc của nhau. Tôi được lấp vào một vị trí, cuối cùng lại mang cái chức danh Giám Đốc Điều Hành Người Tỵ Nạn (Chief Executive Officer (Refugees)). Tôi phải làm rõ rằng tôi không phải là người toàn quyền phụ trách. Vấn đề hết sức phức tạp khiến tất cả chúng tôi phải lao vào học cách đối phó với sự tiến triển của vấn đề. Chúng tôi chỉ biết là chúng tôi phải để những người tỵ nạn được lên bờ một cách mau chóng bởi vì đến tháng 8 năm 1980, hàng ngàn người đang trôi nổi trên những chiếc tàu rách nát ở bến cảng. Đỉnh cao đông đúc nhất của cộng đồng dân cư sống trên thuyền, tôi luôn ghi nhớ, là 8.383 người. Thượng đế đã đối xử tốt với tất cả chúng tôi; năm đó, không có cơn bão nhiệt đới nào đe doạ Hồng Kông. Khi ấy chỉ cần là một cơn gió thổi qua đủ gây nên ngọn sóng, rất nhiều thuyền nhỏ đã có thể đã bị lật úp và hàng ngàn người đã có thể bị thiệt mạng.  

Đơn Vị Phụ Trách Người Tỵ Nạn (Refugee Division) được tổ chức thành hai đơn vị song song. Trung Tâm Quản Lý Người Tỵ Nạn (RCC) dành để giải quyết những vấn đề về vận hành chẳng hạn như sắp xếp cập bờ, vận chuyển người tỵ nạn, theo dõi lượt người đến, đi và các số liệu thống kê khác. Trung Tâm có nhiệm vụ thường xuyên liên kết với một trung tâm truyền thông. Talbot Bashall ở vị trí Quản Lý (Controller), anh ấy có một số người trợ lý.     

Những vấn đề hành chính còn lại, bao gồm lên kế hoạch và sắp đặt các trại, giữ liên lạc với nội bộ và các cơ quan bên ngoài, vấn đề ăn uống, quản lý ngân sách, dịch vụ và bảo quản doanh trại, vấn đề về sức khỏe và vệ sinh, các dịch vụ xã hội, v.v. được giao phó cho nhóm bốn người của tôi. Tôi đứng đầu, được sự hỗ trợ thuần thục của ba nhân viên lâu năm. Chúng tôi không có một lịch trình cố định cho các nhiệm vụ. Tính linh hoạt chính là tuần tự làm việc của mỗi ngày. Hễ ai rảnh tay thì sẽ giải quyết các công việc cần thiết bất kỳ tiếp theo của nhóm. Chúng tôi phải đối mặt với một loạt các yêu cầu khác nhau. Bên cạnh những hoạt động thường ngày, chúng tôi còn phải đương đầu với sự ảnh hưởng của chấy rận, tình trạng nước thải tắc nghẽn, giáo dục phòng chống hoả hoạn, cấp cứu y tế, và ngay cả việc tìm kiếm nơi ăn chốn ở cho một số tình nguyện viên.   

Nhóm chúng tôi và các nhân viên thuộc Trung Tâm Quản Lý Người Tỵ Nạn (RRC) có thức ăn và chỗ ngủ ngay tại văn phòng để tiện cho việc làm việc thêm giờ. May mắn thay, chúng tôi chưa bao giờ phải làm việc suốt đêm, nhưng có những lúc chúng tôi làm việc đến tận tối mịt. Đó thật là một quãng thời gian vất vả, có những lúc, công việc đã thực sự thử thách đức tin của mọi người. Tôi nhớ có một ngày, trời mưa như trút nước, bốn người chúng tôi đứng ở hành lang bên ngoài văn phòng, và trong lúc ngắm nhìn màn mưa thi nhau rơi xuống không ngừng, chúng tôi nhớ đến nỗi khốn khổ của những người tỵ nạn trên những chiếc thuyền nhỏ bé ngoài kia. Một câu hỏi ùa đến: Có thượng đế không? Nếu có, sao ngài lại cho phép những khổ đau như thế diễn ra? Mục đích là gì vậy? Một trong chúng tôi nói, ‘Tất nhiên không có thượng đế rồi, nếu có chúng ta đã không phải ở đây làm công việc này đâu!’. Cũng may là kỷ niệm buồn đó không lung lay được đức tin của chúng tôi. Một trong số chúng tôi còn trụ đến hôm nay, một người đứng đầu của một giáo khu Công giáo Hồng Kông, một người khác là một Phật tử hết lòng tận tâm, còn tôi vẫn đi lễ nhà thờ mỗi tuần. 

Điều quý giá nhất là, giữa chúng tôi, chưa bao giờ có một cuộc cãi nhau hay lần to tiếng giận dữ nào. Thay vào đó, ý thức mạnh mẽ về tình bạn thân thiết và tư duy hài hước là động cơ thúc đẩy chúng tôi đi tiếp. Thỉnh thoảng chúng tôi tụ tập lại với nhau ở chỗ trung tâm quản lý của Talbot để thổ lộ và cảm thông với nhau những sự việc làm nản lòng hoặc là cùng cười với nhau một trận khi mọi việc tiến triển tốt đẹp. Sau cùng thì chúng tôi bị thuyên chuyển đi những nơi khác nhau và mỗi người có con đường của riêng mình, nhưng chúng tôi rời đi với một ý thức và cảm giác sâu sắc về tình bạn. Cho đến tận hôm nay, chúng tôi vẫn còn giữ liên lạc thường xuyên với nhau bằng thư điện tử và Skype.    

Cách khiêm tốn nhất để nói về công việc là nó bất thường. Để cho dễ hình dung. Dịch Vụ Cứu Trợ Dân Sự (CAS) có nhiệm vụ cung cấp thức ăn cho những người tỵ nạn vẫn còn đang trôi nổi trên thuyền của họ. Đỉnh điểm của làn sóng người tỵ nạn tràn vào, nhóm CAS phải tốn mười tiếng đồng hồ để phân phát thức ăn cho người tỵ nạn. Tôi hỏi tại sao cần nhiều thời gian đến vậy. Tôi được trả lời rằng mỗi con thuyền phải chèo đến địa điểm phân phối – một cái cầu phao trong một góc cảng Victoria Harbor. Không giống xe hơi, thuyền không có thắng (phanh), muốn dừng nó lại ở một điểm này nhưng nó lại đi tiếp. Vậy nên, cần thời gian cho những chiếc thuyền này di chuyển tới tới lui lui để xếp được vào hàng đến cầu phao. Một vài chiếc thuyền trong tình trạng rất tồi tệ, đến mức độ khi nước được giao cho họ, máy bơm và ống dẫn nước không được sử dụng vì lo sợ áp lực của nước ra khỏi ống có thể nhận chìm chiếc thuyền.  

Thức ăn được nấu bởi nhân viên nhà bếp của chính phủ Hồng Kông, thông thường bếp này dùng phục vụ cho những nạn nhân địa phương của những vụ hoả hoạn hay thiên tai. Một ngày kia, tôi đến thăm nhà bếp và hoàn toàn kinh ngạc với sự bố trí nấu nướng của bếp. Nhân viên dùng bốn cái chảo khổng lồ để nấu thức ăn. Mỗi cái chảo như vậy có đường kính khoảng ba mét. Đầu bếp đi vòng quanh mép chảo, có hẳn một lối đi bằng xi măng. Đầu bếp xào rau củ trong chảo bằng một cái xẻng đầu bịt tròn. Thức ăn khi chín được đựng trong những thùng gỗ và được nhân viên CAS chuyển đến địa điểm phân phát. Mỗi tuần, một gói hàng bổ sung được phát cho mỗi người tỵ nạn, không phân biệt tuổi tác. Gói hàng bao gồm những thứ như sữa đặc, kẹo, trái cây, bánh quy, đậu phộng. Mục đích của gói hàng này là để đảm bảo người tỵ nạn có được nguồn cung cấp dinh dưỡng cân bằng.   

Các trại tỵ nạn rất đông đúc. Một trong số đó được điều hành bởi The Christian Council, do tổ chức Hồng Thập Tự, một cái bởi Caritas, YMCA, và bởi chính phủ Hồng Kông. Thời gian đó, chúng tôi đã ‘thoải mái, cởi mở’ với ý nghĩ người tỵ nạn có thể đi ra ngoài để làm việc, và họ đã tận dụng điều đó. Vài người thậm chí còn gửi con đến học ở những trường địa phương. Ở các trại khác, vì địa điểm xa xôi, quản lý trại bố trí công việc chuyển giao từ các nhà máy đến cho họ. Một số người kiếm ra bộn tiền từ nhà máy. Thực tế là, chúng tôi nhận được rất nhiều lời phàn nàn bất thường về người tỵ nạn; các hãng hàng không than phiền họ mang vác quá nhiều hành lý khi đi định cư.   

Mỗi trại có một phòng khám y tế và có một trại có cả phòng khám nha khoa. Nói đến đây tôi phải ghi nhận công sức của tất cả tình nguyện viên và các tổ chức từ thiện đã đến giúp đỡ tại các trại, một vài cái tên như: The Christian Council, Caritas, YMCA, Red cross, Save the Children Fund, World Vision, Salvation Army và International Rescue Committee. Có rất nhiều bác sỹ, y tá và những chuyên viên khác đến từ khắp nơi trên thế giới, điều hành trường học và các trung tâm chăm sóc trẻ em, giúp sức tại các phòng khám trong trại và cung cấp các dịch vụ xã hội khác. Các hướng đạo sinh tình nguyện do tôi gợi ý cho đến một trong các trại để thành lập một nhóm hướng đạo sinh trẻ tuổi, cung cấp đồng phục và thiết bị miễn phí. Một số nhân viên chính phủ đã đến trong những ngày nghỉ để dạy học và tổ chức các hoạt động cho trẻ em. Thế giới giản dị đầy ắp những con người thiện tâm. 

Vì tôi đã từng phục vụ trong nhiều ban ngành của chính phủ và có quan hệ tốt với mọi người, chuyện hoàn thành công việc đối với tôi khá dễ dàng. Khi tổ chức Save the Children Fund muốn sửa một chiếc xe tải để dùng như một chiếc xe cứu thương nhỏ, hay khi Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) muốn vận chuyển một chiếc xe tải chụp quang tuyến X đến Macau, tôi đều có thể kết nối họ với đúng người cần gặp. Nhóm chúng tôi thậm chí còn viết lên một cuốn sách gọi là Sổ Tay của Quản Lý Trại Tỵ Nạn (Refugee Camp Manager’s Handbook). Mấy năm sau tôi nghe đồn là Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đã hỏi xin cuốn sách đó vì họ muốn gửi một bản qua Nhật, khi quốc gia này chỉ vừa bắt đầu gặp vấn đề người người tỵ nạn.  

Làm việc cho Đơn Vị Phụ Trách Người Tỵ Nạn là một trong những trải nghiệm tôi hài lòng nhất trong suốt cuộc đời đi làm. Tôi không thể liệt kê hết ra đây tất cả những gì tôi học được trong suốt hai năm rưỡi đó. Những điều ấy đã thay đổi nhân cách và sự nghiệp của tôi. 

Herry Ku đã về hưu và hiện đang sống ở Hawaii. 

Henry Ku

--- Trích từ sách "Thuyền Nhân, nước mắt biển đông từ sau biến cố 30/4/1975" của Carina Hoàng và được sự chấp thuận của tác giả ---

Related Articles

Vượt Biển Đến Úc

Vượt Biển Đến Úc

Có nhiều cuộc vượt biên bằng ghe thuyền được viết và phổ biến trong suốt thời gian dài trên bốn mươi năm mà phần lớn trong những trường hợp đầy thương tâm và chết chóc trên biển cả. Trường hợp của nhóm chúng tôi gồm một tàu hoa tiêu (pilot boat) …

Đọc thêm
Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma

Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma

Trong suốt sáu tháng tôi sống nhờ vào một chén cơm với muối mỗi ngày. Tôi là một tù nhân, bị giam bởi vì một vài công an đã kết luận tôi là một điệp viên CIA khi họ tìm thấy tấm ảnh của tôi với một người Mỹ…

Đọc thêm
Mẹ Tôi

Mẹ Tôi

Sau ngày Sài Gòn thất thủ, gia đình tôi đã trải qua một cuộc đổi đời biển dâu dưới chế độ Cộng Sản. Mong cho các con có được một đời sống tốt đẹp hơn, Ba Mẹ tôi đã quyết định cho các con đi vượt biên, chia làm nhiều đợt. Lý do đơn giản là lỡ có xui xẻo gì xảy ra dọc đường hay trên biển, thì dẫu có là một mất mát đớn đau cho cả nhà, nhưng không đến nỗi phải mất hết…

Đọc thêm
Sống Để Kể Lại

Sống Để Kể Lại

Kể từ khi vượt biên khỏi Việt Nam, hai mươi lăm năm trước, tâm trí tôi vẫn liên tục nghĩ đến hai người chị/em – hai trong số một tá phụ nữ trên con thuyền của tôi bị cưỡng hiếp, bị tra tấn và bị tước đoạt phẩm giá. Là một thanh niên, tôi chưa từng cảm thấy mình vô dụng đến vậy. Tôi thường tự hỏi nếu những người phụ nữ đó đã có thể tiếp tục sống, liệu họ có chịu tiếp nhận tình yêu của một người đàn ông? Liệu họ có thấy được vẻ đẹp hay giá trị sự sống?

Đọc thêm
Công Tử Vượt Biên

Công Tử Vượt Biên

Mỗi lần thất bại như vậy, tôi lại càng thấy rõ sự trưởng thành và quyết tâm của y. Bẩy lần vượt biên không làm y nản chí mà trái lại càng làm y thêm kinh nghiệm và mưu lược hơn. Trong cuộc đời tôi, y là người bạn tôi mến phục và học hỏi được nhiều nhất.

Đọc thêm
Con Tàu Cap Anamur

Con Tàu Cap Anamur

Tác giả: Norman Aisbett Dịch giả: Thành Đặng Không một bản đồ nào có thể biểu hiện sự biến đổi lớn lao, mạnh mẽ của vùng biển Nam Hải và Vịnh Thái Lan. Ta phải lướt trên cái khoảng trống bao la đó, ngày qua ngày, không một bóng dáng đất liền trong tầm mắt, mới cảm...

Đọc thêm
Tìm Đường Tự Do

Tìm Đường Tự Do

Nguyễn Tài Ngọc Người Việt  ở ngoại quốc không ai không biết chữ "boat people -thuyền nhân”. Sau biến cố tháng 4 năm 1975, cả trăm nghìn quân nhân bị gửi đi cải tạo và cả trăm nghìn dân sự bị gửi đi vùng kinh tế mới. Theo những tài liệu tìm tòi của Hoa Kỳ và các quốc...

Đọc thêm