Đảo Ruồi

Th1 18, 2021 | Trại Tỵ Nạn

Hồi Ký: Carina Hoang

Cho đến bây giờ tôi vẫn thường tự hỏi làm thế nào mà chị em chúng tôi vẫn còn sống sót. Đúng như người ta thường nói, con người là một sinh vật vô thường, có khả năng thích ứng tuyệt vời và có bản năng sinh tồn mạnh mẽ.

Sau khi Sài Gòn thất thủ, cuộc sống chúng tôi trở nên vô cùng khó khăn. Cha tôi bị cộng sản bắt giam gần mười bốn năm vì ông là sĩ quan của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, và nhà của chúng tôi thì bị tịch thu ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.  Mẹ tôi phải một mình đùm bọc, nuôi nấng bảy người con dại, mẹ ruột, mẹ chồng, và thăm nuôi chồng ở trong tù từ miền Nam ra đến miền Bắc.

Với lý lịch là con của ‘ngụy’, có cố gắng lắm thì chị em chúng tôi cũng chỉ được phép học hết cấp trung học.  Một tương lai tươi sáng là điều khó có thể hình dung. Thêm vào đó, với tình hình luôn biến động làm cho mọi người lúc nào cũng ở trong trạng thái sợ hãi lo âu vì không biết điều gì sẽ xảy đến tron nay mai.

Mặc dù nhiều gia đình với hoàn cảnh tương tự đã cho con cái của họ rời khỏi Việt Nam, mẹ tôi không đủ can đảm để cho chúng tôi ra đi mà không có mẹ cha. Đến năm 1978, khi cuộc chiến giữa Việt Nam và Campuchia xảy ra, với ba đứa con lớn trong gia đình chúng tôi đang vào lứa tuổi thanh thiếu niên, sớm muộn gì cũng sẽ bị đưa đi nghĩa vụ quân sự. Lo sợ mất con nơi chiến trường, cuối cùng mẹ tôi đành để các con tự vượt biên.  Bà không thể ra đi khi cha của tôi vẫn còn ở trong tù; bên cạnh đó, bà chỉ có khả năng trang trải chi phí cho hai hoặc ba người mà thôi.

Sau vài lần ra khơi bị thất bại, vào ngày 31 tháng 5, năm 1979, tôi cùng hai người em đã thực hiện cuộc vượt biên đầy cam go.  Khi ấy tôi 16 tuổi, em trai 13 tuổi và em gái 12 tuổi.  Chúng tôi dùng giấy khai sanh giả kê khai là người Việt gốc Hoa, trà trộn với 370 người khác rời bỏ quê hương và gia đình bằng một chiếc thuyền bằng gỗ rộng 4.5 m, dài 25 m. Trên thuyền có tổng cộng 75 trẻ em, kể cả ba chị em chúng tôi.

Đêm đầu tiên sau khi ra khơi, chúng tôi đã phải đối mặt với một cơn bão khủng khiếp. Những đợt sóng khổng lồ liên tục đưa con tàu lên cao ngất, rồi đột ngột tàu bị quật mạnh xuống mặt biển làm mọi người ngã sóng soài lên nhau.  Có nhiều lúc tưởng chừng như con tàu sẽ bị sóng đánh vỡ tan. Tôi hình dung chiếc tàu của mình như một chiếc nôi nhỏ bé đang bị một con thú khổng lồ, trong cơn tức giận, nắm lắc một cách điên cuồng.

Tôi không thể nào quên được âm thanh của đêm hôm đó. Bên ngoài sấm sét vang trời, cộng thêm tiếng sóng ào ạt không ngừng đánh vào mạn tàu.  Bên trong tàu thì trẻ em khóc, người lớn gào, pha lẫn với những lời khấn cầu tha thiết. Tiếng Việt lẫn tiếng Trung Hoa, hàng trăm người đồng xướng những lời cầu nguyện đến đấng cứu thế của riêng họ, Chúa Giê-Su, Đức Mẹ Maria, Phật Quan Âm, Ông Bà, Tổ Tiên. Chưa bao giờ cảm thấy mình bất lực đến thế, tôi không ngừng đọc câu kinh mà tôi đã học từ mẹ ‘Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn chúng sinh’.  Mỗi lần thuyền sắp sửa rơi xuống từ ngọn sóng cao, tiếng cầu nguyện của mọi người càng dồn dập hơn và tha thiết hơn.   

Sau này tôi thường bị thức giấc bởi những tiếng kêu gào và cầu nguyện đó, phát ra từ hàng trăm con người, vang vọng trong đầu tôi. Không có từ ngữ nào có thể mô tả thứ âm thanh hỗn độn và kỳ quái này.

Ngày hôm sau, khi cơn bão đã dịu xuống, hầu hết mọi người đã kiệt sức, nằm, ngồi rũ rượi giữa một hỗn hợp nhớp nhúa và hôi tanh của nước biển pha lẫn chất nôn mửa và nước tiểu.

 Đến chiều ngày thứ ba của cuộc hành trình, tàu chúng tôi tiến gần đến Mã Lai nhưng đã bị ngăn không cho vào bờ. Một nhóm lính Mã Lai đã dùng súng bắn về hướng tàu của chúng tôi, sau đó họ nhảy lên trên tàu lục soát và tước đoạt những đồ vật quý giá, kể cả cái hải bàn và bản đồ. Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn rùng mình khi hồi tưởng đến hình ảnh người lính Mã Lai cao lớn, đứng trước mặt chị em tôi, chĩa họng súng vào đầu em trai của tôi và ra dấu cho tôi cởi sợi dây chuyền em đang đeo trên cổ. Sau đó họ dùng dây buộc tàu của chúng tôi vào tàu của họ và kéo tàu chúng tôi ra lại biển Đông. Đến khi trời tối mịt, họ cắt dây kéo, và bắn một vài phát súng chỉ thiên trước khi quay tàu ra đi và bỏ tàu chúng tôi lại lênh đênh trên biển cả.

Hai ngày kế tiếp, tàu chúng tôi bị hai nhóm cướp biển đuổi theo. May thay, tàu chúng tôi chạy nhanh hơn nên nhóm thứ nhất bỏ cuộc. Nhóm thứ hai rượt đến gần tàu của chúng tôi, bỗng nhiên chúng đổi hướng và không đuổi theo nữa. Có lẽ chúng đã nhìn thấy một tàu tỵ nạn khác và cho rằng dễ tấn công hơn. Khi phát hiện tàu của bọn hải tặc đang hướng về tàu của chúng tôi, chủ tàu ra lệnh cho tất cả các phụ nữ và các cô gái đi xuống tầng cuối của tàu. Tôi và hai em vội vã theo họ. Chúng tôi lấy dầu nhớt thậm chí những chất nhờn hôi thối trên sàn tàu để bôi lên mặt, lên tóc, và người để làm cho mình trông càng hôi hám xấu xí càng tốt, với hy vọng rằng bọn cướp biển sẽ không muốn hãm hiếp chúng tôi. Về sau tôi được nghe kể rằng, nếu chúng tôi bị chúng bắt được thì những gì chúng tôi đã làm sẽ không có hiệu quả. Bọn cướp sẽ lột trần chúng tôi ra, rồi dùng vòi nước xịt vào người chúng tôi để tẩy đi những mùi hôi thối trước khi cưỡng hiếp.

Gần bốn trăm con người trên chiếc tàu đi hoài mà không thấy bến bờ. Thức ăn thức uống cũng cạn dần và nhiều người đã kiệt sức. Đến ngày thứ sáu, điều mà mọi người lo lắng, mặc dù không dám nói ra, đã trở thành sự thật. Tử thần đã đến viếng chúng tôi. Nạn nhân đầu tiên là một người đàn ông gần bảy mươi tuổi. Người thân cho biết là ông chết vì ngạt thở và đói. Rồi đến một bà cụ ngoài bảy mươi. Bà ngồi bó gối suốt sáu ngày đêm, bên cạnh các con, cháu. Từ lúc đặt chân xuống tàu cho đến khi trút hơi thở cuối cùng, bà chỉ ngồi ở một vị trí và với một tư thế mà thôi.

Tôi chưa bao giờ nghe nói thủy táng, nên khi chứng kiến tận mắt, tôi bị ám ảnh một thời gian thật dài. Thân hình gầy gò của bà cụ được gói trong một tấm chăn nhỏ, rồi cuộn bên trong một tấm bạt ni-lông. Người ta xếp hai đầu tấm bạt lại rồi dùng dây buộc, giống như buộc một đòn bánh. Các con cháu của bà khóc lóc kêu gào thật thảm thiết. Họ nài nỉ chủ tàu cho họ giữ xác của bà để chôn cất khi đến được đất liền nhưng chủ tàu phải từ chối vì không biết chúng tôi phải lênh đênh trên biển đến bao lâu nữa. Hình ảnh những người con cố níu lấy xác của bà khi hai người đàn ông chuẩn bị thả xuống biển đã làm nát lòng những người chứng kiến. Mọi người thầm biết rằng nếu không được cứu vớt hoặc không đến đất liền sớm, thì sẽ còn nhiều xác chết khác bị quăng xuống biển, và không chỉ riêng người già.

Hơn một ngày sau tàu của chúng tôi đã cập vào một làng chài nhỏ trên hòn đảo Keramut của Indonesia, dân số khoảng gần một trăm. Có lẽ họ chưa bao giờ đón số ‘khách’ đông gấp gần bốn lần dân số của mình… Chủ tàu quyết định làm cho chìm tàu để không bị đuổi ra ngoài biển khơi. Người dân địa phương đã cho chúng tôi tá túc ở ven bìa rừng chung quanh nơi họ cư ngụ trong lúc liên lạc với chính quyền của họ. Thật là lạ lùng, ngồi trên thuyền thì không cảm thấy bị lắc lư, nhưng khi chân chạm đất thì tôi lại cảm thấy như mặt đất chòng chành, làm tôi mất thăng bằng và suýt ngã. Có lẽ không riêng gì tôi mà nhiều người khác cũng cảm thấy như vậy.

 Ba ngày sau chúng tôi được chuyển đến đảo gần đó tên là Letung, nơi đây khá đông dân cư, có trường học, chợ, tiệm tạp hóa, văn phòng chính phủ và bệnh xá. Mọi người ngủ tạm trên vỉa hè, bãi biển, hoặc gần chân núi. Ba chị em tôi và hai gia đình đi cùng tàu, hùn tiền lại mướn một căn nhà đổ nát, chỉ còn một thềm xi măng vuông vức, bốn vách tường và một nửa mái nhà để ở tạm. Tổng cộng mười sáu người gồm ba phụ nữ, ba thanh thiếu niên và và hơn bảy đứa trẻ tuổi từ hai đến mười hai tuổi. Tại đây tôi đã nhờ ông chủ tàu đánh điện tín về Việt Nam để cho mẹ và của tôi biết là chúng tôi đã đến được Nam Dương. Hơn mười ngày sau, chính quyền địa phương cho biết là họ sẽ đưa chúng tôi đến trại tỵ nạn.

Mọi người rất vui mừng và nôn nóng sớm được một chỗ ở ổn định để chờ ngày đi định cư ở một quốc gia thứ ba. Đêm trước khi rời Letung, tôi không tài nào ngủ nổi. Mặc dù chưa hề biết trại tỵ nạn ra sao, tôi cũng cố hình dung một khu vực có những dãy nhà tập thể, rồi tôi tưởng tượng lúc được đoàn tụ với chị và em trai đang sống ở Mỹ, và hằng bao nhiêu suy nghĩ khác tiếp tục kéo đến trong trí óc.

Rạng sáng ngày hôm sau, mấy trăm người tập họp lại cầu tàu để chuẩn bị xuống tàu đi đến trại tỵ nạn có tên là đảo Kuku. Lần này mọi người có nhiều hành lý để mang theo hơn so với khi mới đến. Không ai biết tình hình ở trại ra sao, liệu có được cấp phát thức ăn lúc mới đến hay không nên ai có tiền thì cố mua sắm một ít lương thực khô như mì gói, gạo, và một vài món vật dụng cần thiết như bàn chải đánh răng và cần nhất là cái bô vệ sinh bằng nhựa.

Đi trên biển gần nửa ngày, con tàu chở chúng tôi đánh một nửa vòng tròn quanh một cái cù lao nhỏ, rồi chầm chậm hướng vào một hòn đảo có một dãy núi với cây cối um tùm. Tàu vào gần đến bờ, tài công dừng tàu lại, thả neo và ra dấu cho mọi người leo ra khỏi tàu, cùng với tất cả hành lý.

Chúng tôi vác đồ lên vai rồi lội bộ vào một bãi cát dài có hình dáng cong như  trăng lưỡi liềm. Khi người tỵ nạn cuối cùng ra khỏi tàu, tài công tàu nhổ neo và quay đầu ra khơi. Mấy trăm người ngồi rải rác trên bãi cát, bên cạnh người thân và hành lý. Nhìn chung quanh chỉ thấy núi rừng và biển. Tất cả đều hoang mang, không biết tại sao lại dừng lại trên đảo hoang này, và đương nhiên là không biết đến bao giờ họ mới quay lại để tiếp tục đưa chúng tôi đến trại tỵ nạn. Quần áo còn ướt sũng, không ai buồn đi lại. Hầu hết đều ngồi một chỗ, nhìn ra biển đợi tàu trở lại.

Đêm xuống rất nhanh, chỉ trong chốc lát, tất cả đều chìm vào bóng tối. Cuối cùng rồi mọi người cũng ngủ thiếp đi vì mệt và đói. Nhưng chưa được bao lâu thì chúng tôi bị đánh thức bởi một trận mưa rất to. Không có nơi nào để trú mưa, tất cả đều ngồi tại chỗ mà chịu trận. Sau khi tạnh mưa, gần như chẳng ai có thể ngủ lại được. Một phần là do quần áo bị ướt, phần khác là gió thổi làm chúng tôi lạnh cóng. 

Khi trời bắt đầu sáng, một số người thả bộ dọc theo bãi cát, có lẽ để cho thư giãn. Số người còn lại không buồn nhúc nhích, ai nấy đều hướng mắt ra phía biển trông chờ chiếc tàu hôm qua trở lại để tiếp tục đưa chúng tôi đến trại tỵ nạn. Chúng tôi không mong gì hơn là một chỗ ở nhất định. Sau khi đục cho tàu chìm, mọi người tưởng là sẽ ở lại ở đó cho đến khi định cư, nhưng đã chuyển hết hai đảo, và tới đây là nơi thứ ba.

Read more

--- Trích từ sách "Thuyền Nhân, nước mắt biển đông từ sau biến cố 30/4/1975" của Carina Hoàng và được sự chấp thuận của tác giả ---

Related Articles

Vượt Biển Đến Úc

Vượt Biển Đến Úc

Có nhiều cuộc vượt biên bằng ghe thuyền được viết và phổ biến trong suốt thời gian dài trên bốn mươi năm mà phần lớn trong những trường hợp đầy thương tâm và chết chóc trên biển cả. Trường hợp của nhóm chúng tôi gồm một tàu hoa tiêu (pilot boat) …

Đọc thêm
Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma

Tôi Đặt Tên Con Mình là Lyma

Trong suốt sáu tháng tôi sống nhờ vào một chén cơm với muối mỗi ngày. Tôi là một tù nhân, bị giam bởi vì một vài công an đã kết luận tôi là một điệp viên CIA khi họ tìm thấy tấm ảnh của tôi với một người Mỹ…

Đọc thêm
Mẹ Tôi

Mẹ Tôi

Sau ngày Sài Gòn thất thủ, gia đình tôi đã trải qua một cuộc đổi đời biển dâu dưới chế độ Cộng Sản. Mong cho các con có được một đời sống tốt đẹp hơn, Ba Mẹ tôi đã quyết định cho các con đi vượt biên, chia làm nhiều đợt. Lý do đơn giản là lỡ có xui xẻo gì xảy ra dọc đường hay trên biển, thì dẫu có là một mất mát đớn đau cho cả nhà, nhưng không đến nỗi phải mất hết…

Đọc thêm
Sống Để Kể Lại

Sống Để Kể Lại

Kể từ khi vượt biên khỏi Việt Nam, hai mươi lăm năm trước, tâm trí tôi vẫn liên tục nghĩ đến hai người chị/em – hai trong số một tá phụ nữ trên con thuyền của tôi bị cưỡng hiếp, bị tra tấn và bị tước đoạt phẩm giá. Là một thanh niên, tôi chưa từng cảm thấy mình vô dụng đến vậy. Tôi thường tự hỏi nếu những người phụ nữ đó đã có thể tiếp tục sống, liệu họ có chịu tiếp nhận tình yêu của một người đàn ông? Liệu họ có thấy được vẻ đẹp hay giá trị sự sống?

Đọc thêm
Công Tử Vượt Biên

Công Tử Vượt Biên

Mỗi lần thất bại như vậy, tôi lại càng thấy rõ sự trưởng thành và quyết tâm của y. Bẩy lần vượt biên không làm y nản chí mà trái lại càng làm y thêm kinh nghiệm và mưu lược hơn. Trong cuộc đời tôi, y là người bạn tôi mến phục và học hỏi được nhiều nhất.

Đọc thêm
Con Tàu Cap Anamur

Con Tàu Cap Anamur

Tác giả: Norman Aisbett Dịch giả: Thành Đặng Không một bản đồ nào có thể biểu hiện sự biến đổi lớn lao, mạnh mẽ của vùng biển Nam Hải và Vịnh Thái Lan. Ta phải lướt trên cái khoảng trống bao la đó, ngày qua ngày, không một bóng dáng đất liền trong tầm mắt, mới cảm...

Đọc thêm
Tìm Đường Tự Do

Tìm Đường Tự Do

Nguyễn Tài Ngọc Người Việt  ở ngoại quốc không ai không biết chữ "boat people -thuyền nhân”. Sau biến cố tháng 4 năm 1975, cả trăm nghìn quân nhân bị gửi đi cải tạo và cả trăm nghìn dân sự bị gửi đi vùng kinh tế mới. Theo những tài liệu tìm tòi của Hoa Kỳ và các quốc...

Đọc thêm