SOS!Cứu chúng tôi với!
Hồi ký: Nguyen Quang
Một buổi chiều tà trong sớm thu năm 1982, tôi ngồi trên Bắc Vàm Cống nhìn dòng nước Cửu Long lững lờ trôi, mang theo những cụm lục bình đầy hoa. Nỗi buồn diệu vợi chợt đến. Tôi biết rồi đây sẽ ra đi, xa khỏi chốn này. Cuộc hành trình tìm tự do được tổ chức ra đi trên sông, tương tự thế này, còn hai tuần nữa tiến hành.
Tôi nghĩ đến bố. Không biết ông có cảm xúc và trải nghiệm như tôi hôm nay. Gần ba mươi năm trước, năm 1954, ông đã phải lìa bỏ làng quê trên đồng bằng sông Hồng, Bắc Việt, di cư vào Nam lánh nạn Cộng Sản.
Ông đi lính quốc gia, trở thành sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa. Cộng sản chiếm nốt miền Nam; ông bị nhốt tại Katum, cái gọi là trại Học Tập Cải Tạo, thuộc tỉnh Tây Ninh. Trong khi tôi và mẹ nói chuyện với bố, lúc thăm nuôi năm 1977, thì bất chợt ông nhìn tôi tha thiết nói: “Sao con còn ở đây?”.
Câu nói như một mệnh lệnh có sức thúc đẩy. Từ đấy đầu óc tôi bị ám ảnh, suy nghĩ đêm ngày, làm sao tìm đường vượt biên. Ra đi nhiều lần, tôi mất hết tiền bạc, hai đứa con chết vì không tìm đâu ra thuốc.
Tình hình thật tồi tệ. Ai cũng nghĩ phải bỏ nước mà đi. Lúc ấy Saigon người ta thường nói : “Cột đèn mà biết đi, nó cũng đi”. Nhưng thời điểm này vuợt biên bằng thuyền thì thực là vô cùng khó khăn.
Thay vì mua một chiếc ghe, tôi nghĩ phải tự đóng lấy. Tôi liền bàn với gia đình, bạn bè, những nơi đáng tin cậy. Qua trung gian chạy chọt để có giấy phép đóng ghe, tôi mua gỗ, vật liệu chui. Tôi tìm đến một người bạn biết đóng tầu ở Rạch Giá. Anh cũng nhiều lần vượt biên nhưng chưa được. Anh đồng ý giúp tôi. Rồi tìm một địa điểm kín đáo dọc theo bờ sông Saigon để ghim lô thực hiện.
Khi con tầu gỗ hạ thủy, tôi nghiên cứu một chiến lược. Tôi tự ý cho tầu chạy vòng vòng gần trạm công an biên phòng Cần Giờ, lường trước rằng sự xuất hiện của nó sẽ tạo sự nghi ngờ cho công an trong đồn. Đúng thế, con tầu bị bắt giam hai ngày. Trong thời gian này, chúng tôi biết được giờ giấc và cách thức tuần tiễu của họ.
Sau khi được thả, tôi cho sơn vỏ tầu mầu xám và tìm mua quần áo đồng phục như công an biên phòng.
Khi khởi hành, tôi giấu con tầu trong bụi rậm trên dòng sông gần bờ biển.
Cùng vợ con leo lên được boong tầu vào lúc giữa đêm, tôi thấy số người đông quá. Lúc đầu dự trù bốn mươi, bây giờ lên đến tám chục! Trong đêm đen vắng lặng con tầu nhổ neo. Chúng tôi ra đi, tầu xuôi theo dòng nước qua nơi cửa sông thông ra biển.
Vũng Tầu hiện ra trước mắt. Trăng sáng lấp lánh. Những cụm mây trôi nổi bồng bềnh. Con tầu tàng tàng tiến tới. Những tia sáng chớp liên tục phía sau. Tôi thay quần áo, khoác vào mình y phục bộ đội biên phòng, tay cầm ống nhòm, tay kia lần tìm tràng hạt để trong túi quần. Tôi trèo lên đứng trước buồng lái. Qua ống nhòm, tôi thấy ánh sáng chớp liên tục của tầu biên phòng đằng sau, càng ngày càng rõ.
Tầu công an đang rượt theo chúng tôi. Tôi gọi Ngọc, tài công:
– Bật đèn lên, chạy chậm lại.
Đèn buồng lái bật sáng, bóng tôi hiện ra rõ trên boong, với mũ và đồng phục bộ đội. Tôi hy vọng họ nhìn ra tôi y như đồng bọn với họ.
– Có tầu Liên Xô phía trước.
Ngọc kêu lên làm tình thế thêm rối rắm! Ngọc là sĩ quan hải quân, vừa được thả khỏi tù cải tạo. Tôi quay lại, thấy con tầu sắt to lớn trước mặt, nó hiện ra lù lù trong đêm
tối.
– Cứ đi gần, đừng sát quá. Tôi nói.
Tầu Liên Xô cộng sản phía trước, công an biên phòng phía sau. Nỗi sợ gấp đôi. Bây giờ tầu chúng tôi lọt vào một vùng bừng sáng ngay trước mũi con tầu khổng lồ.
Tôi quay lại cầm ống nhòm nhìn. Lạ kìa? Tầu tuần quay mũi trở lại đi về đồn. Thật khó mà tin vào đôi mắt của mình. Lạy Chúa! Xin cảm tạ. Tôi nhìn lại tầu Liên Xô nhưng không có dấu hiệu đe dọa nào. Nỗi sợ hãi vơi đi rất nhanh.
Chúng tôi đã bỏ lại bờ biển sau lưng sau vài giờ chạy thục mạng. Tầu tiếp tục lao vào đêm đen mênh mông. Trong khi tầu hướng về phía đảo Phú Quốc vào lúc sau trưa, tôi la lên:
– Đến hải phận quốc tế rồi.
Nỗi vui mừng òa vỡ. Tôi ném hết mũ nón, quần áo bộ đội xuống biển. Con tầu trực chỉ ra khơi xa hơn, xuôi Nam, tránh vùng cướp Thái Lan. Trong bữa cơm tối hôm ấy, trăng chiếu sáng mênh mang, tôi đem hai hộp bánh Trung Thu mang theo, chia đều mọi người cùng ăn, vui mừng thoát hiểm.
Ngày thứ ba, biển động, sóng lớn, gió to. Sóng vỗ mạn thuyền tròng trành.
Chúng tôi bơm căng sáu ruột xe hơi, vài thùng nhựa plastic rỗng chuẩn bị làm phao cấp cứu. Sau khi đưa miếng sâm Cao Ly cuối cùng cho tài công, thình lình tôi cảm thấy mệt rũ rượi. Đã qua hai đêm tôi không ngủ. Tôi cố đi ra sau boong tầu, rồi nằm bất tỉnh, không còn biết gì nữa!
Sáng sớm tôi tỉnh dậy, một ngày đẹp trời, tài công đang cho tầu hướng về đảo Bornéo.
Một cột đen xuất hiện phía chân trời. Tôi và Ngọc nghĩ là tượng Nữ Thần Tự Do! Nhưng một thanh niên la lên “Giàn khoan!”. Tầu gỗ đến gần. Tầu sắt lớn hiện ra. Nó lừng lững bỏ đi. Chúng tôi kêu cứu. Nó vẫn cứ đi! Vội vã tôi mang tấm cạc tông được chuẩn bị trước, dùng sơn vẽ “SOS! You and God save us”, giơ lên cao.
Tầu lớn ngừng lại, thả neo. Nỗi hy vọng được cứu của chúng tôi trào dâng. Tầu gỗ áp sát. Một thang dây được thả xuống. Đàn ông con trai leo lên trước. Một lồng bằng dây thừng thả xuống cho phụ nữ và trẻ em được kéo lên sau. Chúng tôi đã được cứu vớt. Là người cuối cùng còn trên tầu gỗ, tôi nhìn khắp nơi lần cuối con tầu gỗ thân thương của mình. Chào nhé!
Một thủy thủ trẻ đến cho hay thuyền trưởng muốn gặp tôi. Chúng tôi cùng lên phòng lái tầu lớn. Thực ngạc nhiên, bữa trưa đã bày sẵn, bốn người đang ngồi chờ. Tôi bối rối, đứng chết trân trước cảnh này. Một người đàn ông trẻ đứng lên giới thiệu:
– Đây là ông Noel thuyền trưởng, ông Duncan phó thuyền trưởng, ông John kỹ
sư cơ khí trưởng, còn tôi là kỹ sư cơ khí, mời ngồi. Chúng ta có vài điều thảo luận.
Anh nói tiếp:
–Công ty chúng tôi ra lệnh không được vớt người tỵ nạn, trừ khi tầu của họ sắp chìm. Lẽ tất nhiên ông đã thấy chúng tôi bỏ đi, nhưng sau có vài người đề nghị, nên lấy ý kiến chung, chúng tôi giơ tay, tầu ông được vớt.
Thế ra chúng tôi được vớt vì đa số đống ý. Rồi anh giục tôi đọc tờ giấy viết bằng tiếng Anh, đại ý nói chủ tầu xác nhận lý do tại sao tầu được vớt.
Tờ giấy kê khai chi tiết về tầu gỗ, chở bao nhiêu người, tình trạng lúc vớt: tầu bị nghiêng, máy hư, hết nguyên liệu, không còn thức ăn, nước uống. Tôi chẳng còn ngần ngừ gì nữa, ký luôn. Tôi thực hài lòng khi họ cho hay, sẽ dùng tầu gỗ chúng tôi để cứu người tỵ nạn khác.
Nguyen Quang
--- Trích từ sách "Thuyền Nhân, nước mắt biển đông từ sau biến cố 30/4/1975" của Carina Hoàng và được sự chấp thuận của tác giả ---
Related Articles
Vượt Biên Bằng Bè
Mình không có xuồng thì tại sao mình không lấy nhiều cái ruột xe ráp lại thành cái bè? Tôi đem ý nghĩ này bàn với vợ tôi và trấn an vợ tôi rằng “nếu mình đi bằng ghe, thì có thể bị chìm và chết, còn cái bè, tuy lạnh lẽo khổ cực nhưng…
Cụm Bèo Lục Bình
Thấm thoát đã gần 21 năm lưu lạc nơi xứ người, mấy đứa con của chúng tôi bây giờ đã lớn. Tôi cũng thường kể lại chuyện cũ cho chúng nghe, luôn cả chuyện về anh chàng thanh niên trẻ đó. Và tôi cũng thường nhủ lòng rằng phải ráng lên để…
Hồi Ký Hải Hành Tìm Tự Do
Bốn bề là nước trong xanh, nắng chiếu gay gắt nên chúng tôi mệt lả vì thiếu nước. Đêm đến đen kịt một mầu, không thấy chi hết, chỉ nằm im, không dám đi đâu vì sợ lọt xuống biển.