Con Tàu Cap Anamur
Tác giả: Norman Aisbett
Dịch giả: Thành Đặng
Không một bản đồ nào có thể biểu hiện sự biến đổi lớn lao, mạnh mẽ của vùng biển Nam Hải và Vịnh Thái Lan.
Ta phải lướt trên cái khoảng trống bao la đó, ngày qua ngày, không một bóng dáng đất liền trong tầm mắt, mới cảm nhận được sự khó khăn khi phải vượt qua vùng biển này.
Tôi đã từng trải qua kinh nghiệm này trong vòng hai tuần rưỡi vào tháng Tám và Chín năm 1981, những gì tôi chứng kiến đã để lại dấu ấn mãi mãi trong đời mình.
Với vai trò ký giả của tờ báo The West Australian, tôi được tham gia chuyến hải trình của tàu Cap Anamur. Đây là một con tàu chở hàng thuê mang cờ Tây Đức, lừng danh về việc cứu vớt những người chạy trốn chế độ cộng sản Việt Nam trên những con thuyền mong manh dùng di chuyển trên sông rạch vào cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980.
Cùng tham gia với tôi là nhiếp ảnh gia đồng nghiệp, David Tanner, những tấm ảnh nổi tiếng của anh nằm trong quyển sách quan trọng này. Đây là chuyến đi thứ 24 của con tàu.
Tàu Cap Anamur hoạt động qua một tổ chức từ thiện do bác sĩ, ký giả Ruper Neudeck thành lập, sau khi ông cảm thấy kinh hoàng với những hình ảnh của thuyền nhân Việt Nam trên màn ảnh truyền hình.
Khởi đầu nhóm mang tên Một Con Tàu Cho Việt Nam, nhưng sau đó đổi thành Ủy Hội Bác Sĩ Cấp Cứu. Tổ chức được tài trợ bằng các đóng góp rộng rãi của công chúng Tây Đức. Các bác sĩ và y tá trẻ ở Đức cũng thường xuyên cống hiến thời gian và kỹ năng của họ cho mục tiêu của con tàu.
Trong tài liệu David và tôi thu thập, chúng tôi ghi nhận sự khắc nghiệt của thời tiết mà thuyền nhân phải đương đầu khi trốn khỏi chế độ cộng sản và sự tố cáo, đàn áp sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc với sự sụp đổ của Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Một đêm, khoảng hai trăm cây số về phía nam mũi Cà Mau, con tàu 5300 tấn trở nên nhỏ bé khi vật lộn với cơn bão xoáy, bằng những đợt sóng khổng lồ đập vào mũi tàu, dồn dập đổ lên khoang trước tàu những con nước trắng xóa.
Tôi thấy mừng vì được an toàn trên phòng của thuyền trưởng, nhưng một ý nghĩ làm tôi ớn lạnh suốt toàn thân. Tôi biết rằng thuyền nhân đang lênh đênh ngoài khơi trong bóng đêm, và con tàu yếu ớt của họ không có cơ hội nào để sống sót, nếu họ chưa chìm hẳn.
Không có chút hoài nghi nào về điều này vì ngay trong tuần trước, tàu Cáp Anamur đã vớt được ba trăm thuyền nhân, con số cho thấy rõ là còn có những người khác đang cần cứu vớt.
Tôi rất đau lòng cho những người chúng tôi đã không tìm được trước khi cơn bão tràn tới. Họ sẽ phải thấy khủng khiếp biết chừng nào!
Tôi cũng nhớ lại những gì có thuyền trưởng Rolf Wangnicl đã nói khi chào đón chúng tôi lên tàu, một đêm nóng bức ở cảng Singapore.
Ông dự đoán một cách ân hận rằng, với vai trò phóng viên tin tức, chúng tôi đã đến trái mùa. Ông bảo mùa bão đã bắt đầu trên biển Nam Hải và ít có thuyền nhân chịu ra đi trong mùa này.
Ngay đến viên thuyền trưởng đây kinh nghiệm này – một người nhiệt thành với cá tính mạnh mẽ – cũng đánh giá thấp sự quyết tâm của những kẻ khao khát tìm tự do.
Tuy thế, thời tiết xấu không chỉ là mối hiểm họa duy nhất. Ngay cả khi biển lặng cũng gây hiểm nghèo cho những ai không mang đủ nước uống. Dưới sức nóng gay gắt của mặt trời – điều kiện tiêu biểu cho vùng nhiệt đới – họ có thể mất nước một cách nhanh chóng.
Tệ hơn thế, máy tàu có thể bị hỏng, như nhiều con tàu đã từng bị. Không được cứu vớt, tàu sẽ trôi dạt đến một cái chết từ từ, như đã có thể diễn ra với số phận cùa những người trên một con tàu dài 14 mét, mới nhìn tưởng như không người.
Cho đến lúc tàu Cap Anamur cập sát bên, và chúng tôi có thể nhìn xuống khoang tàu.
Chúng tôi bị choáng khi nhận ra khoang tàu chật cứng với những con người kiệt quệ, đẫm mồ hôi – phần lớn đã quá suy nhược để nhận ra chúng tôi. Những khuôn mặt không còn cảm xúc và trong tư thế tay chân đan vào nhau, họ chỉ nhìn chăm chăm vào chúng tôi.
Tôi đã viết trên báo: ” Chúng tôi như đang nhìn xuống một mồ chôn tập thể ” và chắc chắn điều đó sẽ xảy ra cho 103 người trên tàu, gồm cả 35 trẻ em, nếu chúng tôi đã không tìm thấy họ.
Sau khi được kéo lên tàu theo nhóm năm đến sáu người một, nhiều người đã phải được đưa ra khoang trước của tàu Cap Anamur, nằm dưới một tấm bạt lớn để được hai bác sĩ xem xét và chăm sóc. Những trường hợp nặng nhất được mang ngay xuống bệnh viện của tàu.
Tôi vẫn có thể hình dung một thiếu nữ nằm lặng lẽ lăn qua lăn lại và tự đấm ngực mình. Tôi ngờ rằng ngôn ngữ có thể diễn tả cảm xúc của cô với sự pha trộn của khủng khiếp và giải thoát từ những gì cô đã trải qua. Tôi cũng không quên buổi sáng đầu tiên trong vịnh Thái Lan. Bất thình lình, chúng tôi nghe thuyền trưởng Wangnick gọi chúng tôi lên đài chỉ huy để nhìn thấy một hàng những chấm cùng cỡ trải dài ở chân trời phía trước.
Những “cái chấm” này là thuyền đánh cá của ngư phủ Thái, và chúng là cái hàng rào không thể vượt qua cho bất kỳ tàu thuyền nhân Việt nào muốn đến Mã Lai.
Như lịch sử ghi nhận rõ, nhiều ngư phủ Thái vào thời đó kiếm thêm thu nhập bằng cách biến thành cướp biển, giết chóc và hãm hiếp người Việt.
Bằng cảm nhận, các tàu Thái trước mặt chúng tôi – tất cả vào khoảng 20 mét chiều dài với máy tàu cực mạnh – đang chuẩn bị sẵn để không những đánh bắt cá, mà có lẽ còn chặn bắt các tàu tỵ nạn.
Đến một lúc, chúng tôi bắt gặp năm tàu Thái vây quanh một tàu tỵ nạn Việt dài khoảng tám mét với 92 thuyền nhân gồm cả đàn bà, trẻ em. Khi đó đang ở về phía tây Mũi Cà Mau khoảng một trăm cây số.
Thuyền trưởng Wangnikc bật còi tàu thật lớn, và cho tàu chạy thẳng đến nơi – chúng tôi khám phá ra đã có hai mươi hai phụ nữ và ba mươi ba trẻ em đã bị bắt mang lên các tàu Thái.
Còn lại bốn mươi đàn ông Việt bị bỏ lại trên tàu – máy tàu đã bị phá hỏng và nước đang tràn vào. Tàu Thái đã ném dây xuống và dùng để kéo con tàu theo, như thể chúng muốn che giấu con tàu khỏi tầm nhìn của tầu Đức đang tiến đến.
Sau một thời gian căng thẳng – các tàu Thái bắt đầu lượn vòng quanh Cap Anamur một cách khiêu khích, cuối cùng, bọn Thái phải bằng lòng trả lại những người bị bắt xuống tàu, và đưa họ sang tàu Cap Anamur. Có lẽ chúng nhận ra là các số tàu đăng ký của chúng đã bị lộ, bọn Thái đành phải bỏ cuộc.
Sau khi lên tàu Cap Anamur, các thuyền nhân kể lại họ đã bị cướp hết tiền bạc, nữ trang, ngay cả các trang sức của trẻ em. Nếu tàu Đức không đến kịp, chắc sẽ còn nhiều chuyện tệ hơn đã xảy ra cho phụ nữ.
Tính lại, đã có 695 thuyền nhân được tàu Cap Anamur vớt trong thời gian chúng tôi ở trên tàu. Tất cả được đưa vào một trại tỵ nạn trên đảo Palawan ở Philipines.
Khi họ sắp hàng để rời tàu với hy vọng tràn trề, tôi nhìn thấy một em gái khoảng mười tuổi đang đứng đầu hàng. Cô bé mang theo bàn chải răng và kem do thủy thủ đoàn cấp, cười rạng rỡ, nhưng tôi không khỏi thấy buồn cho cô bé. Vì chắc em chẳng hề hay biết có nhiều người may mắn sống trong các nước dân chủ đã tỏ ra không mấy rộng lượng với thuyền nhân Việt Nam, gọi họ là tỵ nạn kinh tế.
Tôi biết vì thế em có thể phải trải qua một thời gian dài trong trại tỵ nạn sơ sài nằm sát cạnh phi đạo quân sự cũ ồn ào. Tôi tự nghĩ, giá như những kẻ bác bỏ người tỵ nạn đó có thể đứng bên tôi lúc này và nhìn thấy tia hy vọng trên nét cười của cô bé – Họ có thể từ chối em được không?
Trong thực tế, David Taner và tôi tham gia con tàu Cap Anamur sau khi có nhiều báo cáo cho biết các tàu chở dầu và hàng đã làm ngơ trước sự cầu cứu của thuyền nhân Việt Nam. Một số tàu dừng lại để giúp thực phẩm, nước uống cho thuyền nhân, sau đó tiếp tục đi, không cứu vớt họ.
Hiển nhiên là thời biểu chặt chẽ trong kinh doanh gây trở ngại và tốn kém cho việc cứu vớt thuyền nhân, đưa vào cảng gần nhất. Điều này dẫn đến những chuyện đã có thuyền nhân phải ăn thịt người để sống sót.
Tôi cho là các lối nói bừa bãi nguy hiểm về “tỵ nạn kinh tế” đã góp phần vào những hoàn cảnh đau lòng đó, vì nó tạo cho nhiều thuyền trưởng có lý do để ngoảnh mặt làm ngơ, thay vì giúp đỡ.
Tổ chức của bác sĩ Neudeck cho biết đã cứu hơn mười ngàn thuyền nhân Việt Nam, nhiều người trong số này sinh sống tại Đức, nhưng cũng sống trong các nước tự do khác, kể cả Hoa Kỳ.
Đó là một nỗ lực tuyệt vời của tất cả những ai quan tâm.
Norman Aisbett là ký giả hiện đang hồi hưu bán thời gian, thỉnh thoảng vẫn viết về các vấn đề mà ông quan tâm ở Á Châu. Ông và vợ, Genevieve, có hai con trai, một cô con gái và bốn cháu. Thú tiêu khiển của ông là chơi gôn.
Norman Aisbett
--- Trích từ sách "Thuyền Nhân, nước mắt biển đông từ sau biến cố 30/4/1975" của Carina Hoàng và được sự chấp thuận của tác giả ---
Related Articles
Cụm Bèo Lục Bình
Thấm thoát đã gần 21 năm lưu lạc nơi xứ người, mấy đứa con của chúng tôi bây giờ đã lớn. Tôi cũng thường kể lại chuyện cũ cho chúng nghe, luôn cả chuyện về anh chàng thanh niên trẻ đó. Và tôi cũng thường nhủ lòng rằng phải ráng lên để…
SOS!Cứu chúng tôi với!
Hồi tưởng lại thảm kịch vượt biên của người Việt, hiểm nguy, chết chóc, cướp biển, hãm hiếp, mất hết tiền bạc, trái tim tôi dường như vẫn còn đau nhói. Nhưng mặt khác tôi có dịp giúp đỡ các cháu không thân nhân, thật là một thời gian sống có ý nghĩa.
Hồi Ký Hải Hành Tìm Tự Do
Bốn bề là nước trong xanh, nắng chiếu gay gắt nên chúng tôi mệt lả vì thiếu nước. Đêm đến đen kịt một mầu, không thấy chi hết, chỉ nằm im, không dám đi đâu vì sợ lọt xuống biển.